TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2022/HSST-QĐ ngày 28/4/2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 tại tỉnh Hà Nam. HKTT: Xóm 6, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam. Chỗ ở: Ấp M, xã S, huyện B, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Th và bà Vũ Thị N; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1993. Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2013.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt quả tang ngày 23/12/2021 và đang bị tạm giam. (Bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 09 giờ 40 phút ngày 23/12/2021, Công an xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tiến hành kiểm tra quán Internet L ở thôn Tây Lạc, ấp C, xã S, huyện B phát hiện Nguyễn Văn T đang ngồi trước cửa nhà vệ sinh của quán, bên cạnh có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh), thu giữ trong túi quần của T 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, T khai nhận gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy của T mua để sử dụng.
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (đã niêm phong) ngoài phong bì có chữ ký của Nguyễn Văn T và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom.
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh) - 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh gắn sim số 0389780637 - 0l xe mô tô hiệu SYM, biển số 60AL – 02983 - Số tiền 200.000 đồng.
Qua xét nghiệm (test) kiểm tra việc sử dụng ma túy (mẫu nước tiểu) đối với Nguyễn Văn T cho kết quả dương tính với chất ma túy.
Tại Bản kết luận giám định số: 2508/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1530 gam loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Văn T sử dụng ma túy từ tháng 5/2020. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 08 giờ 00 ngày 23/12/2021 T sử dụng điện thoại OPPO gắn sim số 0389780637 liên lạc với đối tượng P (không rõ tên thật, địa chỉ) mua 100.000 đồng ma túy đá, P đồng ý hẹn T đến khu vực ngã ba giao nhau giữa đường Quốc Lộ 1 và đường Võ Nguyên Giáp thuộc ấp C, xã M, huyện B, tỉnh Đồng Nai để giao nhận ma túy, T điều khiển xe mô tô biển số 60AL-02983 mang theo bộ dụng cụ sử dụng ma túy đến điểm hẹn để gặp P và đưa cho P 100.000 đồng P đưa cho T 01 gói ma túy đá. Sau khi mua được ma túy T bỏ vào túi quần mang đến quán Internet Lộc ở ấp An Chu, xã Bắc Sơn để sử dụng. Khi đến quán Internet Lộc, T mang ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy vào nhà vệ sinh của quán để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang.
Tại bản cáo trạng số: 68/CT-VKS-TB ngày 29/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đối với đối tượng bán ma túy cho T tên P do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy sau giám định số: 2508/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh) là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội đề nghị Toà án tuyên tịch thu tiêu hủy.
01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh gắn sim số 0389780637 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội đề nghị Toà án tuyên tịch thu sung công.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi của bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 23/12/2021 tại quán Internet Lộc ở thôn Tây Lạc, ấp C, xã S, huyện B, Nguyễn Văn T tàng trữ trái phép 0,1530 gam Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh) để sử dụng thì bị bắt quả tang.
[2.1] Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.
[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy pháp luật nghiêm cấm, nhưng để có ma túy sử dụng, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng: Không.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bản thân bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
[6.1] Đối với số ma túy còn lại sau giám định được chứa trong 01 phong bì niêm phong số: 2508/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh) là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh gắn sim số 0389780637 là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
[6.3] Đối với số tiền 200.000 đồng của T sử dụng tiêu xài cá nhân không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho T là phù hợp.
[6.4] Đối với 0l xe mô tô hiệu SYM, biển số 60AL – 02983 qua xác minh người đứng tên trên Chứng nhận đăng ký xe là ông Nguyễn Văn Đ là em họ của ông Nguyễn Văn Th (cha ruột của T). Năm 2018 ông Th mua xe trên để sử dụng nhưng do không thường trú tại địa phương nên ông Th nhờ ông Đ đứng tên trên chứng nhận đăng ký xe, xe mô tô hiệu SYM, biển số 60AL – 02983 vẫn do ông Th làm chủ sở hữu. Ngày 23/12/2021, T mượn xe trên của ông Th để đi chơi, sau đó sử dụng vào việc phạm tội thì ông Th không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Th là phù hợp.
[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy chứa trong 01 phong bì niêm phong số: 2508/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm bình nhựa, ống thủy tinh)
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh gắn sim số 0389780637 (Vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/3/2022)
3. Về án phí hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2022/HS-ST
Số hiệu: | 77/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về