Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 75/2021/HS-ST NGÀY 02/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:64/2021/HSST ngày 25/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2021/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trọng C, sinh năm 1982 tại tỉnh Long An Tên gọi khác: không Nơi cư trú: số 53B, đường PVT, phường 6, thành phố TA, tỉnh Long An Nghề nghiệp: tài xế Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Công X và bà Trần Thị T; Bị cáo có vợ tên Âu Minh Q, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2021; Bị cáo có 01 người em sinh năm 1985.

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 24/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST. Bị cáo chấp hành xong ngày 24/4/2019 chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/4/2021, chuyển tạm giam từ ngày 22/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: 349/7 ấp TH, xã TPL, huyện CT, tỉnh Long An

– Người làm chứng: Huỳnh Hoài P, sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp HP 2, xã ĐT, huyện MCN, tỉnh Bến Tre

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 18/4/2021, Lê Trọng C điều khiển xe ô tô biển số 62A-145.11 chở khách thuê từ thành phố Tân An đến khu vực quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Đến khoảng 21 giờ Công tiếp tục điều khiển xe đến khu vực vòng xoay An Lạc thuộc quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh (không rõ vị trí cụ thể) để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, C gặp 01 nam thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) và hỏi mua ma túy với số tiền 500.000đồng thì được người này giao cho 02 bịch nylon màu trắng có chứa ma túy bên trong, bên ngoài được gói lại bằng khăn giấy màu trắng, sau đó C lấy 02 bịch ma túy này bỏ vào bao thuốc lá hiệu Jet, cất giấu vào trong túi quần bên trái đang mặc và điều khiếu xe ô tô về tỉnh Tiền Giang để rước khách. Đến khoảng 01 giờ ngày 19/4/2021, khi C vừa điều khiển xe vào khách sạn NP tại ấp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng và đồ vật thu giữ gồm:

- 01 gói niêm phong, bên trong có 02 (hai) gói nylon màu trắng được hàn kín, bên trong mỗi gói đều có chứa tinh thể màu trắng, nghi vấn là ma túy được niêm phong lại, bên ngoài có chữ ký của Lê Trọng C và điều tra viên Nguyễn Văn Duyễn;

- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet;

- 01 xe ô tô 04 chỗ biển số 62A - 145.11;

- 01 điện thoại di động Galaxy note 10+ có sim đang hoạt động (không kiểm tra chi tiết bên trong máy);

- 01 điện thoại di động Galaxy A 31 có sim đang hoạt động ( không kiểm tra chi tiết bên trong máy);

Tại kết luận giám định số 65/KLGĐ-PC09 ngày 20/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: các mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 2,8898 gam, loại Methamphetamine (trong đó: mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 2,5095 gam; mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M2 có khối lượng 0,3803 gam).

Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKSCT ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Lê Trọng C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời thừa nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng và không thay đổi. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và cha bị cáo là người có công với cách mạng, bị cáo có ông nội là liệt sĩ, bị cáo có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s,v khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52, điều 38, điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điều 47 Bộ luật hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng viện kiểm sát truy tố, bị cáo biết mình sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình, phụ vợ nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn L vắng mặt không tham dự phiên tòa. Xét sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, vì vậy căn cứ vào Điều 292 Bộ luật hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra truy tố xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận khoảng 16 giờ ngày 18/4/2021 bị cáo có điều khiển xe ô tô biển số 62A-145.11 đến khu vực vòng xoay An Lạc thuộc quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh gặp một nam thanh niên để hỏi mua ma túy với số tiền là 500.000đồng, bị cáo lấy ma túy bỏ vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet giấu vào túi quần bên trái đang mặc và điều khiển xe về tỉnh Tiền Giang. Đến khoảng 01 giờ ngày 19/4/2021 khi bị cáo điều khiển xe vào khuôn viên khách sạn NP tại ấp Tân Phú, xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang. Xét thừa nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết luận luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Kết quả giám định lượng ma túy thu giữ có khối lượng 2,8898gam, loại Methamphetamin. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện, sử dụng ma túy làm tổn hại đến sức khỏe và còn là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng, do vậy cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, để có một mức án cho phù hợp với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phải xem xét đến nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[5] Xét bị cáo đã có 01 tiền án, ngày 24/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 06 năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 24/4/2019, bị cáo chưa được xóa án tích, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, tuy nhiên xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có ông nội là liệt sĩ, bị cáo và cha bị cáo được nhà nước tặng huy chương chiến sĩ vẻ vang. Do vậy cần áp dụng điểm s, v khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự xem đây là tình tiết để giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Song xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo không cải tạo sửa chữa lỗi lầm mà vẫn tiếp tục lao sâu vào con đường phạm tội, Hội đồng xét xử xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để đủ cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng để phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[6] Đối tượng nam thanh niên có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho bị cáo tại khu vực vòng xoay An Lạc thuộc quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo không rõ họ, địa chỉ cụ thể của người này nên không có cơ sở xác minh, xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: 01(một) bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 65 ghi ngày 20 tháng 4 năm 2021 có các chữ ký in họ tên: Nguyễn Thị Kiều Linh (Giám định viên-Bên giao), Huỳnh Thị Diệu Hương (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Điệp (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ-CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG. Bên trong có 01 gói nylon màu trắng được dán kín (ký hiệu M1) chứa 2,4244 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine (mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu là M1), 01 gói nylon màu trắng được dán kín (ký hiệu M2) chứa 0,3216 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine (mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M2) và 02 vỏ bao gói nylon màu trắng đã bị cắt 01 đầu để lấy mẫu giám định; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet. Đây là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe ô tô 04 chỗ biển số 62A - 145.11. Xe này do anh Nguyễn Văn L đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe, anh Lý xác định cho bị cáo Công thuê sử dụng mục đích chở thuê cho khách và hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã xử lý vật chứng trả trả lại cho anh Nguyễn Văn L xong nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với 01 điện thoại di động Galaxy note 10+ có sim đang họat động và 01 điện thoại di động Galaxy A 31 có sim đang hoạt động. Qua xác minh đây là tài sản của bị cáo Công và không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã xử lý vật chứng trả lại cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Xét quan điểm luận tội và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, về tội danh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Trọng C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, v khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điều 38, 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trọng C 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/4/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điều 47 Bộ luật hình sự Tịch thu tiêu hủy:

- 01(một) bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 65 ghi ngày 20 tháng 4 năm 2021 có các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Thị Kiều L (Giám định viên-Bên giao), Huỳnh Thị Diệu H (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Ngọc Đ (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ-CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG.

- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2021/HS-ST

Số hiệu:75/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;