Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/7/2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2022/TLST - HS ngày 09/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên : Trương Thị Bích P (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nữ; Sinh ngày 14/3/1994 tại Phú Thọ.

Nơi cư trú: Khu 7, xã Đại Phạm, huyện H, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn H và bà Nguyễn Thị H; Chồng: Trần Ngọc L; Bị cáo có 01 con sinh năm 2013; Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị bắt tạm giữ từ ngày 29/4/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 40 phút ngày 28/4/2022 tổ công tác công an phường Duyên Hải làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 7, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai phát hiện đối tượng Trương Thị Bích P đang đứng trước cửa quán Bar FaceClub có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra đối với Trương Thị Bích P và mời anh Đào Xuân V (Sinh năm 1965, Nơi cư trú: tổ 7, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai) là người chứng kiến. Quá trình kiểm tra Trương Thị Bích P khai nhận bản thân đang cất giấu ma túy trong túi xách đeo ở tay phải và tự giác lấy từ trong túi xách màu nâu đeo ở tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 02 túi nilon màu trắng bên ngoài các túi này được cuốn bằng dây chun màu vàng, mở kiểm tra bên trong túi nilon thứ nhất chứa 09 viên nén hình tròn màu hồng, bên trong túi nilon thứ hai chứa 10 viên nén hình tròn màu hồng, trên một mặt của các viên nén này đều được dập chìm chữ “WY”. Trương Thị Bích P khai nhận đây là ma túy hồng phiến của Phượng, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra còn tạm giữ của Trương Thị Bích P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đỏ có số IMEI 350538280477568/01, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số seri 356613725730204, 01 túi giả da, màu nâu (đã qua sử dụng). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định Tại bản kết luận giám định số 113/KL-GĐMT ngày 06/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 1,83 (một phẩy tám mươi ba) gam ma túy Methamphetamine Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với bản kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 61/CT - VKS ngày 08/6/2022 truy tố Trương Thị Bích P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trương Thị Bích P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền khấng cáo đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bi cáo Trương Thị Bích P: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận ngày 28/4/2022, bị cáo có hành vi mua 1,83 (một phẩy tám mươi ba) gam ma túy Methamphetamine với số tiền 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng) của một người nam giới tên Nam (không rõ tuổi, địa chỉ cụ thể). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, bị cáo cầm theo chiếc túi xách chứa 02 túi ma túy đi Taxi đến Bar FaceClub thuộc tổ 7, phường Duyên Hải, uống rượu và nghe nhạc cùng các bạn. Khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày Trương Thị Bích P đi về, khi đang đứng trước cửa Bar FaceClub thì bị tổ công tác Công an phường Duyên Hải phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, người chứng kiến, tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận giám định khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để sử dụng là 1,83 gam chất ma túy Methamphetamin [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trương Thị Bích P không có tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương xác định bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 1,06 gam ma túy Methamphetamin còn lại sau giám định, xác định đây là vật nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 túi xách giả da màu nâu, xét thấy không có giá trị về kinh tế. Vì vậy càn tịch thu tiêu huỷ.

Đối với người nam giới tên Nam đã bán ma tuý cho Trương Thị Bích P vào ngày 28/4/2022 tại khu vực ngã tư đường Ngô Văn Sở giao nhau với đường Phan Đình Phùng thuộc tổ 16, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai. Ngoài lời khai của bị can Trương Thị Bích P ra không có tài liệu nào khác để chứng minh. Do vậy, không điều tra làm rõ được, khi nào xác minh, làm rõ được sẽ xử lý sau.

[6 Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trương Thị Bích P phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.Phạt bị cáo Trương Thị Bích P 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/4/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 1,06 (Một phẩy không sáu) gam ma túy Methamphetamin cùng toàn bộ niêm phong, túi gói cũ được tái niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai . Trên một mặt của bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Trương Thị Bích P ngày 28/4/2022 tại tổ 7 phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”; 01 (một) túi giả da, màu nâu (đã qua sử dụng); Tạm giữ của bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đỏ, có số IMEI:

350538280477568/01; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen có số sse ri: 356613725730204 để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/6/2022) 4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyêt sô 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy đinh vê an phi , lê phi Toa an : Buộc bị cáo Trương Thị Bích P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;