Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/TLST-HS, ngày 18 tháng 5 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn B, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 08 tháng 9 năm 1993 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Lương, sinh năm 1963 và bà Lê Thị Dịnh, sinh năm 1964; vợ: Chị Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 1993; con: có 02 con, lớn sinh năm 2015 nhỏ sinh năm 2017; Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2022 đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Ông Hồ Văn Lợi - sinh năm: 1964 Địa chỉ cư trú: xóm Xuân Lai, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 12/02/2022 do có nhu cầu mua ma Túy để sử dụng, nên Lê Văn B là đối tượng nghiện ma Túy đi bộ từ nhà của mình ở xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An, đến nhà Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977, trú tại xóm K, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An, để hỏi mua ma Túy. Khi gặp T, B nói với T “Để cho em năm trăm nghìn đồng” tức là B nói T bán cho B 500.000 (năm trăm nghìn đồng) tiền ma Túy, thì T đồng ý và nhận tiền từ B rồi nói B ngồi chờ T một lát. T cầm tiền rồi đi một lúc sau quay lại chỗ B đang ngồi đợi và đưa cho B 01 (một) Ti ni lông màu đen, bên trong có chứa 09 viên nén hình tròn màu đỏ, nghi là ma Túy tổng hợp.

Sau khi mua được ma Túy Lê Văn B bỏ vào Ti quần đang mặc rồi đi về nhà của mình để ngủ.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/02/2022 tổ công tác Công an xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An, đang làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc Lê Văn B có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma Túy tại nhà ông Lê Văn H, sinh năm 1932 là ông nội của B. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì phát hiện thu giữ số ma Túy của B rơi từ T quần ra tại vị trí trên giường nơi B đang ngủ. Lê Văn B hoàn toàn thừa nhận gói ma Túy của B mua về mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Vật chứng trong vụ án:

- Thu giữ của Lê Văn B 09 viên nén hình tròn màu đỏ có khối lượng 0,895 g (không phẩy tám trăm chín mươi lăm gam), đã gửi giám định 02 (hai) viên khối lượng 0,2 g (không phẩy hai gam) mẫu giám định không hoàn lại, hiện còn 07 viên có khối lượng 0,695g (không phẩy sáu trăm chín mươi lăm gam) cùng vỏ vật chứng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu;

- Thu giữ của Lê Văn B 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có chứa số sim 0965576679. Các vật chứng nêu trên, hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Công an huyện Y, chở xử lý theo quy định pháp luật.

Ngày 13/02/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh Nghệ An tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977 tại xóm K, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An nhưng không phát hiện, thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận giám định số 288/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Lê Văn B gửi đến giám định là ma Túy (Methamphetamine). Số viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Lê Văn B có tổng khối lượng 0,895g (không phẩy tám trăm chín mươi lăm gam)” Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y Lê Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đối với đối tượng bán ma Túy cho Lê Văn B là Nguyễn Thanh T hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không ai biết nên khi nào xác định và làm rõ được sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số 75/CT-VKS-YT ngày 17/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lê Văn B về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma Túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn B đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma Túy mà bị cáo thực hiện vào ngày 13/02/2022 tại khu vực xóm P, xã Đ, huyện Y là đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Lê Văn B từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ bị cáo 13/02/2022. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau khi đã lấy mẫu đi giám định (mẫu giám định không hoàn lại); trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có chứa số sim 0965576679.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo biết sai, đã nhận thức và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung nhận định của Hội đồng xét xử về những vấn đề phải giải quyết trong vụ án.

[2.1] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo Lê Văn B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 10 giờ 30 phút ngày 13/02/2022, kết luận giám định số 288/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 13/02/2022, tại nhà ông Lê Văn H, sinh năm 1932 là ông nội của Lê Văn B thuộc khu vực xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An bị cáo Lê Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép ma Túy loại Methamphetamine với khối lượng 0,895g (không phẩy tám trăm chín mươi lăm gam) nhằm mục đích để sử dụng.

Xét thấy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma Túy của nhà nước ta, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma Túy nhưng không chịu tu dưỡng bản thân. Bị cáo là người trực tiếp giao dịch với người bán ma Túy, mua về nhằm mục đích sử dụng. Do đó hành vi của bị cáo Lê Văn B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy”. Tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự với mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[2.2.1] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma Túy là chất gây nghiện và gây ra nhiều tội phạm khác. Hành vi tàng trữ 09 viên ma Túy Methamphetamine với khối lượng 0,895g của bị cáo để sử dụng cho bản thân nhằm thỏa mãn cơn nghiện gây mất trật tự, trị an trên địa bàn và thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải nghiêm khắc với bị cáo, nhất thiết phải xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2.2.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Lê Văn B không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2.2.3] Về tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó cần cho bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[2.3.] Về hình phạt bổ sung:

Theo qui định ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, lại là người nghiện ma Túy và không có tài sản riêng. Do đó hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc hình phạt khác đối với bị cáo.

[2.4.] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- 01(một) Ti ni lông màu đen bên trong có 09 (chín) viên nén hình tròn màu đỏ là ma Túy Methamphetamine, có khối lượng là 0,895g (không phẩy tám trăm chín mươi lăm gam). Quá trình điều tra đã lấy đi 02 viên nén hình tròn màu đỏ có khối lượng là 0,2g niêm phong gửi đi giám định, mẫu giám định đã sử dụng hết không hoàn lại. Số còn lại 07 viên nén hình tròn màu đỏ có khối lượng là 0,695 g (không phẩy sáu trăm chín mươi lăm gam). Đây là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có chứa số sim 0965576679 là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo không sử dụng liên lạc để mua ma Túy, không liên quan đến hành vi phạm tôi nên cần trả lại cho bị cáo.

[2.5.] Về những vấn đề khác:

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho Lê Văn B là Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977 tại xóm K, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện tại T không có mặt tại địa phương, không xác định được đi đâu, làm gì. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[3.] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

[4.] Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn B 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma Túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 13/02/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 07 viên nén hình tròn màu đỏ có khối lượng là 0,695 g (không phẩy sáu trăm chín mươi lăm gam) và bao bì niêm phong ban đầu.

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn B: 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có chứa số sim 0965576679.

Vật chứng đã được chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự huyện Y quản lý. Chi tiết vật chứng khi thi hành án thực hiện theo biên bản giao nhận vật chứng và các phiếu nhập kho đề cùng ngày 30/5/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Y và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Y.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Lê Văn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;