Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2022/HSST, ngày 11 tháng 3 năm 2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐXXST-HS, ngày 25 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo.

Họ và tên: Lường Văn T (Tên gọi khác: Không) - Sinh năm 1989; Nơi sinh:

Tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT: Xã K L, huyện Đ B, tỉnh Đ; Chỗ ở: Bản N C, phường N T, thành phố Đ P, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12 phổ thông; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lường Văn K và bà Nguyễn Thị L; Vợ: Lò Thị H (đã ly hôn), con có một con sinh năm 2010;

Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 04 tháng 6 năm 2015, Lường Văn T bị Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ xét xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đi chấp hành án đến ngày 22/3/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa nộp án phí và chưa bồi thường cho bị hại.

Ngoài ra ngày 27/6/2008 T bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 06/11/2009 đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 03/12/2021, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 03/12/2021, tổ công tác về ma tuý Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên làm nhiệm vụ và phát hiện Lường Văn T đang ngồi tại bãi đất trống phía sau ngôi nhà số 48, tổ dân phố 7, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma tuý. Tổ công tác áp sát kiểm tra, phát hiện T thả 01 gói giấy bạc màu vàng đang cầm trong bàn tay phải xuống nền bê tông cách bàn cH phải 10cm. T khai vào khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, T đi xe đạp xuống khu vực Bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên gặp mua được một gói Heroine trên của một người đàn ông không quen biết với giá 50.000 đồng, T đem về đến tổ dân phố 7, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ đang định sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, lâp biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 0,15 gam Heroine, 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 xe đạp mini màu sơn đỏ, đen đã qua sử dụng là xe của chị Nguyễn Thị Mai Anh.

Tại bản kết luận giám định số: 1313/GĐ-PC09 ngày 10/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng ký hiệu M: 0,15 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy STT: 9, mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018, sau khi giám định hoàn lại 0,12 gam Heroine .

Tại bản cáo trạng số: 21/CT-VKSTPĐBP ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Lường Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS: Xử phạt bị cáo Lường Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine, khối lượng còn lại sau khi giám định là 0,12 gam, 01 mảnh giấy bạc màu vàng. Chấp nhận biên bản trao trả tài sản ngày 10/02/2022.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các biên bản hỏi cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 03/12/2021 tại khu vực tổ dân phố 07, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,15 gam Heroine, mục đích để bản tH bị cáo sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc các một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

...c) Heroine ,... có khối lượng từ 0,1 gam đến 05 gam"

[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nH phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

- Ngày 04 tháng 6 năm 2015, Lường Văn T bị Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ xét xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đi chấp hành án đến ngày 22/3/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa nộp án phí và chưa bồi thường cho bị hại. Đến nay bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 /BLHS.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Ngày 27/6/2008 T bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 06/11/2009 đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Ngày 03/12/2021 bị Công an thành phố Điện Biên Phủ bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[4]. Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị và bị cáo đi chấp hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[6]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine, khối lượng còn lại sau khi giám định là 0,12 gam, 01 mảnh giấy bạc màu vàng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với chiếc xe đạp mini màu sơn đỏ, đen đã qua sử dụng là xe của chị Nguyễn Thị Mai Anh cho T mượn, chị Mai Anh không biết T sử dụng vào việc phạm tội. Sau khi tạm giữ Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị Mai Anh nhận ngày 10/02/2022. Xét thấy Cơ quan điều tra xử lý đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy tại phiên tòa hôm nay HĐXX không đặt vấn đề giải quyết.

[7]. Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không xác minh làm rõ được, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[8]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thành phố Điện Biên Phủ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[9]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Lường Văn T 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (03/12/2021).

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo 3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 0,12 gam Heroine khối lượng còn lại sau khi giám định, 01 mảnh giấy bạc màu vàng (đã niêm phong).

(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2022);

- Chấp nhận biên bản trả lại tài sản cho chị Nguyễn Thị Mai Anh nhận ngày 10/02/2022.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (08/4/2022)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;