Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CG, TỈNH LA

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 18/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CG, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2023/TLST - HS ngày 22 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2023/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Thành Tr, sinh năm: 1998.

Nơi thường trú: ấp L Tiền, xã Mỹ L, huyện CG, tỉnh LA; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hồng Hvà bà Nguyễn Thị Trúc Ph; Bản thân có vợ tên Trần Thị Thùy D, chưa có con; Tiền án – tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên Nguyễn Thái L, sinh năm: 2003.

Nơi thường trú: ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh, huyện GC, tỉnh TG; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L và bà Thái Thị Ngọc D; Bản thân chưa có vợ, chung sống như vợ chồng với Phạm Thị Kim A, chưa có con. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Nguyễn Tuấn Th, sinh năm: 1992 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố Long Phú, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.

2/ Trần Thị Thùy D, sinh năm: 1997 (có mặt).

Cư trú: ấp Nam, xã Đông Thạnh, huyện CG, tỉnh LA.

3/ Nguyễn Văn L, sinh năm: 1969 (có mặt).

Cư trú: ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh, huyện GC, tỉnh TG.

4/ Phạm Thị Nhã Nh, sinh năm: 1988 (vắng mặt). Cư trú: Ấp 2/5, xã Long Hậu, huyện CG, tỉnh LA.

Người chứng kiến:

1/ Nguyễn Huy H, sinh năm: 1989 (vắng mặt).

2/ Nguyễn Duy Ph, sinh năm: 2003 (vắng mặt).

Cùng cư trú: khu phố Kim Định, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 19 giờ 30 phút ngày 11/01/2023 Nguyễn Thành Tr dùng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax màu xanh liên lạc với Nguyễn Thái L qua điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31 màu đen, nhờ L ứng trước 500.000 đồng, để mua ma túy đem về sử dụng, Tr sẽ Th toán lại sau thì L đồng ý. L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 63B6-xxxxx đến khu vực xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, mua của người phụ nữ không rõ tên, địa chỉ 550.000 đồng ma túy, gồm 03 gói nylon, hàn kín chứa ma túy đá, gồm 02 (hai) gói giá 200.000 đồng và 01 (một) gói giá 150.000 đồng. Sau khi đem ma túy về, L cùng với Tr và Nguyễn Tuấn Th sử dụng 01 (một) gói ma túy giá 150.000 đồng, Th đưa cho L 50.000 đồng, đổ xăng. Khi sử dụng hết gói ma túy giá 150.000 đồng, Tr chở Th về nhà. Sau đó, Tr quay trở lại đưa cho L 200.000 đồng, số tiền còn lại 300.000 đồng Tr nói khi nào có tiền Tr sẽ trả sau. L và Tr sử dụng tiếp gói ma túy giá 200.000 đồng, còn lại 01 (một) gói ma túy giá 200.000 đồng, L rủ Tr tiếp tục sử dụng thì Tr thấy mệt nên từ chối và kêu L cất giữ để dành sử dụng sau. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 12/01/2023, Công an thị trấn CG trên đường tuần tra khu vực tuyến tránh Quốc lộ 50 thuộc khu phố Long Phú, thị trấn CG, huyện CG, phát hiện L và Tr đang đậu xe mô tô trên lề đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua đó phát hiện trong bóp da màu nâu trong túi quần Jean phía sau bên phải của L có 01 (một) gói nylon hàn kín, được dán miếng giấy màu trắng ghi 200, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy. Nên cơ quan Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Tại kết luận giám định số 48/KL-KTHS ngày 18/01/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LA, kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1528 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKSCG ngày 22/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố hai bị cáo cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hai bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Thành Tr từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Nguyễn Thái L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với hai bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Vật chứng: đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: khối lượng ma túy còn lại sau giám định 0,0792 gam, được đóng gói niêm phong số 48; 03 (ba) thẻ sim điện thoại di động số 0357.630.xxx, 0794.952.xxx (của bị cáo L); số 0374.804.xxx (của bị cáo Tr); 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) nỏ thủy tinh, 01 (một) ống hút nhựa màu đen, 01 (một) nắp chai nhựa màu vàng và 01 (một) chai nhựa màu trắng; 02 (hai) gói nylon màu trắng và 01 (một) bóp da màu nâu (của bị cáo Tr).

Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy A31 của bị cáo L do sử dụng liên lạc mua ma túy và số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng). Buộc bị cáo L phải nộp lại số tiền 50.000 đồng (do Th trả) và Tr nộp số tiền 300.000 đồng tiền mua ma túy đã hứa với L, nhưng chưa trả, tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone 12 Pro Max, màu xanh và 01 (một) xe mô tô Vario, màu trắng, biển số 62M1-xxxxx thuộc sở hữu của chị Trần Thị Thùy D là vợ bị cáo Tr; 01 (một) xe mô tô Yamaha Exciter, biển số 63B6-xxxxx, màu xanh trắng thuộc sở hữu của Nguyễn Văn L là cha bị cáo L và 01 (một) điện thoại di động hiệu VOS, màu đen, số sim 0898.738.xxx thuộc sở hữu của Phạm Thị Nhã Nh vợ của Nguyễn Tuấn Th. Cơ quan CSĐT Công an huyện CG trao trả lại cho các chủ sở hữu, là phù hợp.

Hai bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt, không có ý kiến tranh luận.

Hai bị cáo nói lời sau cùng là xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nguyễn Thành Tr và Nguyễn Thái L đều là những đối tượng sử dụng ma túy. Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 11/01/2023, Tr liên lạc qua điện thoại di động với L thống nhất mua 500.000 đồng ma túy, nhưng L mua 550.000 đồng ma túy, gồm 03 gói nilon, hàn kín (02 gói giá 200.000 đồng và 01 gói giá 150.000 đồng). Sau đó, L, Tr cùng với Nguyễn Tuấn Th sử dụng 01 (một) gói ma túy giá 150.000 đồng, Th đưa cho L 50.000 đồng, phụ tiền đổ xăng (sau đó Tr chở Th về). Khi Tr quay lại, L tiếp tục cùng với Tr sử dụng 01 (một) gói ma túy giá 200.000 đồng, còn lại 01 (một) gói ma túy giá 200.000 đồng, Tr kêu L cất giữ để dành sử dụng sau. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 12/01/2023, Công an tuần tra phát hiện bắt quả tang, cùng tang vật. Theo Kết luận giám định số: 48/KL-KTHS ngày 18/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LA kết luận: tinh thể màu trắng đựng trong gói nylon được hàn kín gửi đi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1528 gam. Khối lượng ma túy hai bị cáo Tr và L tàng trữ trên 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do đó hành vi của hai bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi trái pháp luật của hai bị cáo là nguy hiểm, hai bị cáo thừa biết ma tuý là chất độc hại, gây nghiện làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và thể chất con người nên Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm các hành vi như sản xuất, mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, nhưng hai bị cáo vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của hai bị cáo được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ngoài ra việc sử dụng ma túy là một trong các tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần thiết xử lý hai bị cáo bằng một hình phạt thỏa đáng mới có thể giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án cũng cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của từng bị cáo khi lượng hình:

[4.1] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: không.

[4.2] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo: hai bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4.3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của hai bị cáo là như nhau: Tr là người rủ rê, điện thoại cho L nhờ mua ma túy (hứa trả tiền sau). L là người điện thoại để liên lạc, trực tiếp mua ma túy, chuẩn bị công cụ để sử dụng, hai bị cáo đều là đối tượng sử dụng ma túy. Xét về nhân thân cả hai bị cáo có nhân thân tốt.

Với những phân tích trên. Hội đồng xét xử, xét thấy hình phạt dành cho hai bị cáo nên bằng nhau.

[5] Xét thấy cần cách ly hai bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với hai bị cáo cũng đủ răn đe, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với hai bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[6] Đối với đối tượng nữ đã bán ma túy cho L ở khu vực xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CG đã có Văn bản số 397/CSĐT, ngày 30/5/2023 thông báo cho cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh, làm rõ xử lý theo thẩm quyền. Đối với Nguyễn Tuấn Th đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên cơ quan CSĐT Công an huyện CG, đã có Công văn số 445/CSĐT, ngày 05/6/2023 chuyển Công an thị trấn CG, huyện CG, xử phạt hành chính theo thẩm quyền.

[7] Về tang vật thu giữ: nên căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, để xử lý tang vật thu giữ như sau:

[7.1] Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định 0,0792 gam, được đóng gói niêm phong số 48, nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 (hai) thẻ sim điện thoại di động số 0357.630.xxx và 0794.952.xxx của bị cáo L; 01 (một) thẻ sim điện thoại di động mang số 0374.804.xxx của bị cáo Tr, các thẻ sim này sử dụng để liên lạc mua và hẹn sử dụng trái phép chất ma túy, nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) nỏ thủy tinh, 01 (một) ống hút nhựa màu đen, 01 (một) nắp chai nhựa màu vàng, 01 (một) chai nhựa màu trắng; 02 (hai) gói nylon màu trắng và 01 (một) bóp da màu nâu của bị cáo L sử dụng để cất giấu ma túy, xét thấy giá trị sử dụng không lớn, nên tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31, màu đen của bị cáo L do dùng liên lạc mua ma túy, nên tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo L, đây là tiền bị cáo Tr trả tiền mua ma túy cho L, nên tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước. Ngoài ra đối với số tiền 50.000 đồng Nguyễn Tuấn Th đưa cho bị cáo L, nên buộc L phải giao nộp lại tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền mua ma túy còn lại 300.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thành Tr hứa trả cho L, nhưng chưa trả, nên buộc bị cáo Tr giao nộp, tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

[7.3] Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone 12 Pro Max, màu xanh và 01 (một) xe mô tô Vario, màu trắng, biển số 62M1-xxxxx qua điều tra xác định thuộc sở hữu của Trần Thị Thùy D là vợ bị cáo Tr; 01 (một) xe mô tô Yamaha Exciter, biển số 63B6- xxxxx, màu xanh trắng thuộc sở hữu của Nguyễn Văn L là cha bị cáo L và 01 (một) điện thoại di động hiệu VOS, màu đen, số sim 0898.738.xxx thuộc sở hữu của Phạm Thị Nhã Nh vợ của Nguyễn Tuấn Th. Qua điều tra xác định các chủ sở hữu không biết Tr, L và Th sử dụng để thực hiện hành vi sử dụng trái phép và tàng trữ trái phép chất ma túy, nên Cơ quan CSĐT trao trả lại cho các chủ sở hữu, là phù hợp.

[8] Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Tr và Nguyễn Thái L cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Thành Tr 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 17/3/2023.

Nguyễn Thái L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/01/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam hai bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (18/7/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Về tang vật:

Tịch thu tiêu hủy: khối lượng ma túy còn lại sau giám định 0,0792 gam, được đóng gói niêm phong số 48; 03 (ba) thẻ sim điện thoại di động số 0357.630.xxx, 0794.952.xxx; số 0374.804.xxx; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, gồm: 01 (một) nỏ thủy tinh, 01 (một) ống hút nhựa màu đen, 01 (một) nắp chai nhựa màu vàng và 01 (một) chai nhựa màu trắng; 02 (hai) gói nylon màu trắng và 01 (một) bóp da màu nâu.

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại Samsung Galaxy A31 và số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

Hiện vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện CG đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 43/QĐ-VKSCG, ngày 22 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG.

Buộc bị cáo Nguyễn Thái L phải giao nộp số tiền 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) và bị cáo Nguyễn Thành Tr giao nộp số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí: mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;