Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 73/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 07 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2021/TLST - HS ngày 21 tháng 06 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59 /2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 06 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành L, sinh ngày 26/4/1983 tại Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ a, khu b, phường D, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; có vợ: Phùng Thị Kim M, sinh năm 1983; và con lớn sinh năm 2004 và nhỏ sinh năm 2010; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: - Tại Bản án số 192/2010/HSST ngày 29/9/2010 của TAND thành phố Việt Trì xử phạt L 27 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2012 và thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm ngày 13/12/2010; Tại Bản án số 54/2016/HSST ngày 29/3/2016 của TAND thành phố Việt Trì xử phạt L 33 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/4/2018 và thi hành xong khoản án phí hình sự sơ thẩm ngày 13/10/2016; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/4/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 40 phút ngày 01/4/2021 tại tổ 27, khu 10, phường TM, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Việt Trì đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thành L, sinh năm 1983, HKTT: Tổ a, khu b, phường D, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của L 03 gói giấy đều có mặt ngoài và mặt trong màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng. Tại chỗ, L khai nhận đây là ma túy L sử dụng cho bản thân.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Việt Trì đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số chất rắn dạng tinh thể màu trắng đã thu giữ của L. Tại Bản kết luận giám định số 457/KLGĐ ngày 05/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: "Chất cục, bột màu trắng chứa trong 03 gói giấy đều có mặt ngoài, mặt trong màu trắng có dòng kẻ, trong bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,412 gam, loại Heroine".

Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ;

Hoàn trả lại đối tượng giám định là 0,290 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói đã được giám định.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành L khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Do bản thân có nhu cầu sử dụng chất ma tuý, khoảng 07 giờ ngày 01/4/2021, L một mình đi nhờ xe của một người không quen biết xuống khu vực vườn hoa thuộc thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc để tìm mua ma túy. Tại đây, L gặp một người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ. L hỏi và mua được 03 gói ma túy Heroine đều có mặt ngoài và mặt trong màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng với giá 500.000 đồng. Sau khi mua xong L đi nhờ xe của người qua đường đi về nhà. Khi đến khu vực gần cây xăng thuộc tổ a, khu b, phường TM, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, L xuống xe đi bộ để tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị Công an thành phố Việt Trì lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong 03 gói ma túy có đặc điểm như đã nêu trên.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho L ngày 01/4/2021, do L không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đủ căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.

Bản thân L là người có nhân thân xấu. Đã 02 lần bị Tòa án xét xử về tội liên quan đến ma túy. Đến thời điểm phạm tội 01/4/2021 bị cáo đã được xóa án tích, tại Cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Về điều kiện kinh tế của bị cáo qua xác minh Cơ quan điều tra xác định ngoài đồ dùng thiết yếu cho sinh hoạt bị can không có tài sản gì khác có giá trị.

Bản Cáo trạng số: 73/CT-VKS-VT ngày 17 tháng 06 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố không bổ sung hoặc thay đổi nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L từ 33 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/04/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo L Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu để tiêu hủy: - 01 bì niêm phong có số: 457/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả lại 0,290 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói đã được giám định.

Về án phí:Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Việt Trì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra,truy tố, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Hồi 08 giờ 40 phút ngày 01/4/2021 tại tổ 27, khu 10, phường TM, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Thành L đã có hành vi tàng trữ trái phép, khối lượng 0,412 gam chất ma tuý loại Heroine với mục đích để sử dụng, bị Công an thành phố Việt Trì kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Do vậy, L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự Điểm c, khoản 1 điều 249 BLHS quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c. Heroine.......có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ, sử dụng ma túy sẽ bị xử lý theo pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy rằng hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ma túy là nguyên nhân là phát sinh các loại tội phạm khác và còn gây nên sự bất bình trong nhân dân, nên phải được xử lý nghiêm, và lên một hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để có tác dụng răn đe riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cho bị cáo cần xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau [3] Về nhân thân,tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đã 2 lần bị Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì kết án tội về ma túy, nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên xem

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị ngoài đồ dùng sinh hoạt cá nhân nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho L ngày 01/4/2021, do L không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đủ căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bì niêm phong có số: 457/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả lại 0,290 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói đã được giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/04/2021.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thành L.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy: 01 bì niêm phong có số:

457/KLGĐ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả lại 0,290 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói đã được giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 06 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Việt Trì và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì)

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thành L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2021/HS-ST

Số hiệu:73/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;