Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến, công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2023/TLST-HS ngày 07/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2023/QĐXXST-HS ngày 14/9/2023 đối với bị cáo:

ng A S (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 02/9/1990 tại xã ST, huyện Phù Yên; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản T, xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Vàng A K (đã chết) và bà Mùa Thị V, sinh năm1954; bị cáo có vợ là Mùa Thị C, sinh năm: 1992, có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2023; Tiền án, Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 21/9/2007 bị Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có;

Ngày 12/3/2019 bị Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2023 đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Mùa Thị D, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Bản T, xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La – Có mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 05 giờ 00 phút ngày 07/6/2023 tổ công tác Công an huyện Phù Yên làm nhiệm vụ tại khu vực bản ST, huyện Phù Yên tiến hành kiểm tra đối với Vàng A S, qua kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay trái của S 01 gói nilon màu đen bên trong có 02 gói. Gói thứ nhất có 08 gói nhỏ; gói thứ hai có 08 gói đều được gói bằng nilon màu xanh + màu hồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải bị cáo về Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên để điều tra làm rõ.

Cùng ngày Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên đã phối hợp với các đơn vị liên ngành tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng ma túy thu giữ của Vàng A S. Kết quả cân tịnh như sau: gói thứ nhất ký hiệu S1 có khối lượng =0,131gam; gói thứ hai ký hiệu S2 có khối lượng = 0,114gam; gói thứ ba ký hiệu S3 có khối lượng = 0,128gam; gói thứ tư ký hiệu S4 có khối lượng = 0,116gam;

gói thứ năm ký hiệu S5 có khối lượng = 0,120gam; gói thứ sáu ký hiệu S6 khối lương =0,117gam; gói thứ bảy ký hiệu S7 có khối lượng = 0,095gam; gói thứ tám ký hiệu S8 có khối lượng = 0,105gam; gói thứ chín ký hiệu S9 khối lương =0,111gam; gói thứ mười ký hiệu S10 có khối lượng = 0,113gam; gói thứ mười một ký hiệu S11 có khối lượng = 0,125gam; gói thứ mười hai ký hiệu S12 khối lương =0,115gam; gói thứ mười ba ký hiệu S13 có khối lượng = 0,127gam; gói thứ mười bốn ký hiệu S14 có khối lượng = 0,101gam; gói thứ mười năm ký hiệu S15 có khối lượng= 0,129gam; gói thứ mười sáu ký hiệu S16 khối lương =0,111gam; Lấy toàn bộ ký hiệu từ S1 đến S16 gửi giám định. Tổng khối lượng 16 gói là 1,858 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 1847 ngày 10/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

- Mẫu giám định ký hiệu từ S1 đến S16 gửi giám định đều là ma tuý; Loại Heroine. có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất. Khối lượng của mẫu gửi giám định là: S1=0,131gam; S2=0,114gam; S3=0,128gam; S4=0,116gam; S5= 0,120gam; S6=0,117gam; S7=0,095gam; S8 = 0,105gam; S9=0,111gam; S10 = 0,113gam;

S11=0,125gam;S12=0,115gam;S13=0,127gam;S14=0,101gam;S15=0,129gam; S16=0,111gam. Tổng khối lượng thu giữ là 1,858 gam. Loại Heroine. có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất. Mẫu vật gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra Vàng A S khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 06/6/2023 S điều khiển xe mô tô BKS 26D1-3X5 từ nhà ở Bản T, xã ST, huyện Phù Yên đi đến Bản LS, xã HĐ, huyện BY để tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi đến Bản LS S gặp một người đàn ông tên là T không biết họ và địa chỉ, hỏi mua ma tuý qua trao đổi S đưa số tiền 800.000đ cho T, cầm tiền T đi khoảng một tiếng sau quay lại đưa cho S 01 gói nilon màu đen bên trong có 16 gói ma tuý, sau đó S chia làm 02 gói gồm gói 1 có 08 gói nhỏ; gói 2 có 08 gói nhỏ đều gói bằng nilon màu hồng + màu xanh. Trên đường về đến khoảng 05 giờ 00 phút ngày 07/6/2023 đi đến khu vực bản ST, xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện phát hiện và bắt quả tang thu giữ vật chứng nói trên.

Tại bản Cáo trạng số 54/CT - VKS ngày 06/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Vàng A S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng A S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 2, 3 Điều 35; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Phạt bổ sung là phạt tiền 1.000.000đ (một triệu) để sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS: điểm a,c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

-Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong gồm có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở + 04 mảnh nilon màu đen + 09 mảnh nilon màu xanh + 08 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu trắng là vật chứng sau khi cân tịnh.

-Trả lại cho Mùa Thị D 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE alpha BKS 26D1-3X5, màu trắng đen, số máy JA39E-X2419, số khung RLHJA3914KY374596, xe có 01 gương chiếu hậu bên trái và 01 chìa khoá xe máy, xe cũ đã qua sử dụng.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, do bị cáo là hộ nghèo, hộ cận nghèo của xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bà Mùa Thị D đề nghị xin lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE alpha BKS 26D1-3X5, màu trắng đen thu giữ của bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 05 giờ 00 phút ngày 07/6/2023 tại Bản ST, xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong lấy mẫu giám định; kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến sự việc và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Ngày 07/6/2023 bị cáo Vàng A S đã có hành vi cất giấu trái phép 1,858 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nhất là đối với các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý, khi bị bắt qua xét nghiệm là dương tính với ma tuý, nhân thân xấu cụ thể: Ngày 21/9/2007 bị Toà án nhân dân huyện Phù Yên xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; Ngày 12/3/2019 bị Toà án nhân dân huyện Phù Yên xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình cũng như tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với khối lượng ma tuý là 1,858gam Heroine. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một khoảng thời gian nhất định đủ để cải tạo giáo dục, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo như khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo đã sử dụng phương tiện xe máy là tài sản chung của vợ chồng làm phương tiện phạm tội ma tuý, giá trị tài sản của người phạm tội không lớn, bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn của xã ST do đó thuộc trường hợp cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 2, 3 Điều 35 BLHS, phạt để nộp ngân sách nhà nước theo quy định.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 26D1-3X5, màu trắng đen thu giữ của bị cáo là tài sản chung của vợ chồng bị cáo, khi bị cáo lấy xe đi thực hiện hành vi phạm tội. Chị Mùa Thị D (là vợ) không biết, không liên quan, tại phiên toà chị D xin lại tài sản và cho rằng 01chiếc xe mô tô là tài sản duy nhất làm phương tiện đi lại phục vụ gia đình. HĐXX thấy bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn của xã ST, huyện Phù Yên do đó cần trả lại cho chị Mùa Thị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong gồm có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở + 04 mảnh nilon màu đen + 09 mảnh nilon màu xanh + 08 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu trắng, xét thấy là vật không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu, tiêu hủy.

[5] - Đối với người đàn ông người Mông tên T mà bị cáo khai người đã bán ma tuý cho ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.

[6] Bị cáo là hộ nghèo, hộ cận nghèo của xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La do đó cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 2, khoản 3 Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vàng A S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt Vàng A S 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2023.

Phạt bổ sung là phạt tiền 1.000.000 đồng (một triệu) đối với bị cáo, để sung quỹ nhà nước.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, khoản 2 Điều 47 BLHS:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong gồm có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở + 04 mảnh nilon màu đen + 09 mảnh nilon màu xanh + 08 mảnh nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu trắng.

- Trả lại tài sản cho chị Mùa Thị D là 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE alpha BKS 26D1-3X5, màu trắng đen, số máy JA39E- X2419, số khung RLHJA3914KY374596, xe có 01 gương chiếu hậu bên trái và 01 chìa khoá xe máy, xe cũ đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 72/BB-GNVC ngày 08/9/2023 giữa Công an huyện Phù Yên và Chi cục THADS huyện Phù Yên ).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A S.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2023/HS-ST

Số hiệu:72/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;