TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 72/2021/HSST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2021/HSST, ngày 19-5-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2021/QĐXXST-HS, ngày 04-6-2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2021/QĐXXST-HS, ngày 24-6-2021 đối với bị cáo:
Lò Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1985; tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản M, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Trồng Trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn Th (đã chết) và bà Lò Thị Ph; sinh năm: 1965; bị cáo có vợ: Lò Thị T, sinh năm: 1991 và 02 con, lớn 12 tuổi, nhỏ 4 tuổi;
tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 25-02-2021, đến nay có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ, 30 phút, ngày 25-02-2021, tại khu vực Bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Lò Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:
- 01gói nilon màu xanh, bên trong chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroine ( Lò Văn N khai là Heroine), có khối lượng 0,09 gam, trích rút toàn bộ 0,09 gam ký hiệu N1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy. Một viên nén hình trụ tròn màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (Lò Văn N khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,10 gam, trích rút toàn bộ 01 viên nén hình trụ tròn màu hồng có khối lượng 0,10 gam ký hiệu N2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.
Kết luận giám định số: 515/KL, ngày 28-2-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N1 là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam, mẫu vật gửi giám đính ký hiệu N2 là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,09 gam, loại Heroine và 0,10 gam ma túy, loại Methamphetamine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu N2 có không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,05 gam. Đối với mẫu N1 đã sử dụng hết trong quá trình giám định).
Tại cơ quan điều tra bị cáo Lò Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 25-02-2021, Lò Văn N một mình đi bộ từ nhà sang bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi Lò Văn N gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn N không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói ma túy, gói bằng nilon màu xanh bên trong có một ít Heroine và 01 viên hồng phiến với giá 50.000đồng. Sau khi mua được ma túy, Lò Văn N cầm gói ma túy ở tay phải và đi bộ về nhà.
Khi đến khu vực Bản M, xã TM, huyện Thuận Châu thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lò Văn N về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số: 65/CT-VKS, ngày 18-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Lò Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn N về điểm, điều, khoản và tội danh trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Lò Văn N mức án từ 18 tháng đến 22 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lò Văn N.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 0,05 gam ma túy, loại Methamphetamine + 01mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm.
Ý kiến của bị cáo Lò Văn N: Nhất trí như bản luận tội của Viện kiểm sát, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[2]. Ngày 25-02-2021, Lò Văn N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,09 gam ma túy, loại Heroine và 0,10 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng hại chất ma túy là 0,19 gam. Mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân.
Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Lò Văn N mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không lớn, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lò Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật. Cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội.
Bị cáo Lò Văn N đang bị tạm giam, tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về nguồn gốc số ma túy, Lò Văn N khai mua của người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn N không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu), tại bản T, xã TM Thuận Châu với giá 50.000đ vào ngày 25-02-2021, do chỉ có lời khai duy nhất của Lò Văn N, nên không có căn cứ để điều tra xử lý.
[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,05 gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo còn lại sau khi trích rút gửi giám định, là hàng Quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nilon màu xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[4]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn N phải chịu án phí Hình sợ sơ thẩm theo quy định. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Xử phạt bị cáo Lò Văn N 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam giữ (ngày 25-02-2021).
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hinh sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tiêu hủy:
+ Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 25/02/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 024935 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, bên trong có: 01 mảnh nilon màu xanh + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
+ Một phong bì niêm phong mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Văn N - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 25/02/2021. Gồm có: Phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu N2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng là 0,05 gam. Mặt sau dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La, có số seri 051950 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.
(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La).
3.Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Lò Văn N phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2021/HSST
Số hiệu: | 72/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về