Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 72/2021/HSST NGÀY 13/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2021/HSST ngày 09 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXX-HS ngày 02/8/2021 và Thông báo số 36/TB-TA ngày 16/8/2021 về việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa do tình hình dịch bệnh Covid 19 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRÌNH ĐỨC TRƯỜNG L, tên gọi khác: Út L.

- Sinh ngày: 21/5/1995 tại TP. Đà Nẵng.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

- Trình độ học vấn: 6/12.

- Nghề nghiệp: LĐPT.

- Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 14, phường Đ, quận S, TP. Đà Nẵng.

- Con ông: Trình Đức S (sinh năm: 1964) và bà Đặng Thị G (sinh năm: 1964), cùng trú tại: Tổ 14, phường Đ, quận S, TP. Đà Nẵng. Gia đình bị cáo có ba người con. Bị cáo là con thứ ba.

- Tiền án: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Tiền sự: Chưa.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an quận Sơn Trà. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trình Đức S- Sinh năm: 1964 và bà Đặng Thị G- Sinh năm: 1968- Cùng trú tại: K51/H01/16 đường L, tổ 14 phường Đ, quận S, Tp Đà Nẵng. Ông S có mặt.

* Người chứng kiến: Ông Lê Văn D- Sinh năm: 1961- Trú tại: Tổ 14 phường Đ, quận S, Tp Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 07 giờ 20 phút ngày 20/4/2021, Đội CSĐTTP về ma túy Công an quận Sơn Trà phối hợp với Công an phường An Hải Đông triển khai lực lượng tiến hành kiểm tra tại số nhà K51/H01/16 Lương Thế Vinh, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà vì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc có 01 nam thanh niên nghi vấn tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện, Trình Đức Trường L đang ngủ tại phòng ngủ dưới tầng trệt và khai thác nhanh thì L khai nhận có sử dụng thuốc lắc vào tối ngày 19/4/2021. Tiến hành kiểm tra trong phòng ngủ của L phát hiện 01 hộp gỗ bên trong có chứa 01 gói nilong kích thước (4x6) cm bên trong có chứa 12 viên nén hình dạng không xác định nhiều cạnh, màu xanh , mặt trên viên nén có dập chữ nổi dòng chữ Red bull còn ở dưới đáy của gói nilong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng được hàn kín để tách biệt với đoạn trên. Đối với tang vật này, L khai nhận là thuốc lắc và Ketamin L mua về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang, tạm giữ tang vật.

Tang vật tạm gi : 01 gói nilong kích thước (4x6) cm bên trong có chứa 12 viên nén hình dạng không xác định nhiều cạnh, màu xanh, mặt trên viên nén có dập chữ nổi dòng chữ Red bull còn ở mặt đáy của gói nilong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng. Niêm phong ký hiệu là L.

Qua điều tra làm rõ : Ngày 10/4/2021, Trình Đức Trường L liên lạc với người tên Phong (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 12 viên thuốc lắc và Ketamin với giá 5.000.000 đồng để sử dụng. Phong đồng ý và hẹn L đến quán cà phê (không nhớ rõ tên quán) ở quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng để giao dịch ma túy. Sau khi mua được ma túy, L mang về phòng ngủ cất giấu để sử dụng dần nhưng chưa kịp sử dụng thì lúc 07 giờ 20 phút ngày 20/4/2021 bị Công an bắt quả tang, tạm giữ tang vật.

Theo biên bản xét nghiệm ma túy lúc 09 giờ 15 ngày 20/4/2021 thì Trình Đức Trường L dương tính với chất ma túy tổng hợp.

Theo kết luận giám định giám định số 118 ngày 27/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đà Nẵng thì: Các viên nén màu xanh trong mẫu ký hiệu L1 (12 viên) gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng viên nén mẫu L1 là: 5,307 gam; Tinh thể rắn màu trắng trong mẫu ký hiệu L2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng tinh thể mẫu L2 là: 0,346 gam.

Căn cứ điểm b, khoản 3, Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ ngày 02/02/2018 quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều luật Bộ luật Hình sự 2015 thì tổng tỉ lệ phần trăm được tính là: 5,307 gam/30x100+0,346 gam/100 x100 = 17,69 + 0,34 = 18,03% (dưới 100%).

* Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà giữ nguyên quan điểm truy tố theo Bản cáo trạng số 69/CT-VKS-ST ngày 08/7/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Trình Đức Trường L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đồng thời đề nghị: Áp dụng điểm n khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trình Đức Trường L từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt 20/4/2021.

Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu huỷ: 01 phòng bì niêm phong đựng mẫu hoàn lại (mẫu ma túy còn lại sau giám định) số: 118/GĐ-MT ngày 27/4/2021 của Phòng KTHS Công an TP Đà Nẵng;

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng cra bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Trình Đức Trường L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể: Ngày 10/4/2021, để có ma túy sử dụng cho nhu cầu của bản thân, Trình Đức Trường L đã liên hệ với người tên Phong (chưa r nhân thân lai lịch) mua 5,307 gam ma tuý, loại MDMA và 0,346 gam ma túy, loại Ketamine với giá 5.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, L mang về nhà (tại số nhà K51/H01/16 Lương Thế Vinh, phường An Hải Đông, quận Sơn Trà ) cất giấu tại phòng ngủ của L nhưng chưa kịp sử dụng thì lúc 07 giờ 20 phút ngày 20/4/2021 bị Đội CSĐTTP về ma túy Công an quận Sơn Trà phối hợp với Công an phường An Hải Đông, quận Sơn Trà kiểm tra phát hiện bắt quả tang, tạm giữ tang vật.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo thấy phù hợp với các chứng cứ, tài liệu điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định hành vi của bị cáo Trình Đức Trường L đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm n khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội thì thấy: Ma túy tổng hợp MDMA và Ketamine là loại độc chất gây ảo giác, có khả năng gây nghiện mạnh, có hại cho sức khoẻ và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội do đó bị Nhà nước cấm tự do tàng trữ, mua bán, vận chuyển hoặc chiếm đoạt. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hại rất lớn cho xã hội, là hành vi cố ý và thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Do đó, cần phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc mới tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân c ng như các tình tiết giảm nhẹ , tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội nên ở lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong khi lượng hình.

[5] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Xác định số ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành nên c n áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ: 01 phòng bì niêm phong đựng mẫu hoàn lại (mẫu ma túy còn lại sau giám định) số: 118/GĐ-MT ngày 27/4/2021 của Phòng KTHS Công an TP Đà Nẵng.

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Sơn Trà , thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/7/2021).

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trình Đức Trường L, Công an quận Sơn Trà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Đối với đối tượng tên Phong bán ma túy cho L hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT – Công an quận Sơn Trà tiếp tục điều tra, xác minh làm r và xử lý sau là phù hợp.

Từ những nhận định trên cho thấy đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà tại phiên tòa về tội danh và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần áp dụng đối với bị cáo là đúng quy định của pháp luật và phù hợp với quan điểm xử lý vụ án của Hội đồng xét xử.

Án phí HSST: Bị cáo Trình Đức Trường L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trình Đức Trường L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trình Đức Trường L 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 20/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phòng bì niêm phong đựng mẫu hoàn lại (mẫu ma túy còn lại sau giám định) số: 118/GĐ-MT ngày 27/4/2021 của Phòng KTHS Công an TP Đà Nẵng.

(Các vật chứng, tài sản trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/4/2021)

3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trình Đức Trường L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Báo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng những người vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1706
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2021/HSST

Số hiệu:72/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;