Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC G

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong ngày 08 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 79/2020/TLST- HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trương Việt H, sinh năm 1998 Tên gọi khác: Không;Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn A N, xã Tr H, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Quang Đô, sinh năm 1969; Con bà: Nguyễn Thị La, sinh năm 1979; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc G có mặt tại phiên tòa.

2.Họ và tên: Đặng Hà G, sinh năm 1999; Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn C H, xã K Th, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12 Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đặng Xuân T, sinh năm 1976. Con bà: Bùi Thị H, sinh năm 1976; Vợ Nguyễn Thị Th, sinh năm 1999. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2019 đến ngày 23/01/2020. Hiện bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

3.Họ và tên: Hoàng Văn T, sinh năm 1997. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T N, xã Th H, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn T (đã chết); Con bà: Cao Thị H1, sinh năm 1976, Vợ, con: Chưa có Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai.Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2019 đến ngày 23/01/2020, Hiện bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Vũ Thị L - sinh năm 1999 vắng mặt Địa chỉ: thôn khả lã, xã Tân Lập, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G

2. Chị Nguyễn Thị Th - sinh năm 1999 vắng mặt Địa chỉ: Thôn C H, xã K Th, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G

3. Chị Đoàn Thị Phương Nh- sinh năm 2002 vắng mặt Địa chỉ: Số nhà 5, đường Hoa ban, phường Pú Trạng, xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

4. Chị Cao Thị H1- sinh năm 1976 có mặt Địa chỉ: Thôn T N, xã Th H, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G

5. Anh Bùi Anh T1- sinh năm 1972 vắng mặt Địa chỉ : Khu 1 ( nay là tổ dân phố số 1), thị trấn Nếnh, Việt Yên, Bắc G

- Người chứng kiến:

1- Ông Phạm Việt H- sinh năm 1957 vắng mặt

2- Ông Bùi Trọng L1; sinh năm 1960 vắng mặt

Đều địa chỉ : Khu 1 ( nay là tổ dân phố số 1), thị trấn Nếnh, Việt Yên, Bắc G

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 01 giờ 40 phút ngày 21/12/2019, tại phòng 501 nhà nghỉ Bảo An ở thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G, Công an huyện Việt Yên bắt quả tang Trương Việt H, sinh năm 1998, trú quán: Thôn A N, xã Tr H, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G, Đặng Hà G, sinh năm 1999, trú quán: Thôn C H, xã K Th, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G, Hoàng Văn T, sinh năm 1997, trú quán: Thôn T N, xã Th H, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G cùng với các đối tượng Nguyễn Thị Th, sinh năm 1999 (vợ Đặng Hà G), Vũ Thị L, sinh năm 1999, trú quán: thôn Khả Lã, xã Tân Lập, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc G, Đoàn Thị Phương Nh, sinh năm 2002, trú quán: phường Pú Trạng, xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

-Thu tại mặt bàn trong phòng: 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền màu đỏ, bên trong có chứa mảnh viên nén màu nâu, được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT1”. 01 đĩa sứ màu trắng, trên mặt đĩa có chất bột màu trắng, cơ quan Công an thu chất cục bột màu trắng cho vào 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa viền màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT2”. 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, mặt ngoài được lồng bằng mảnh giấy đầu lọc thuốc lá màu vàng trắng có chữ Vinataba màu đỏ, 01 thẻ bằng nhựa có chữ Lioa màu đỏ.

Quá trình bắt giữ, các đối tượng tự giao nộp: Hoàng Văn T: 01 điện thoại di động Iphone màu đen, 1.250.000đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên T; Đặng Hà G: 01 điện thoại di động Iphone màu đỏ, 01 chứng minh nhân dân mang tên G; Vũ Thị L: 01 điện thoại di động Iphone màu xám, 1.040.000đồng; Nguyễn Thị Th: 01 điện thoại di động Iphone màu hồng; Đoàn Thị Phương Nh: 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu, có số Imei: 860565031764922 và 250.000đồng.

Ngày 21/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của G, H, T nhưng không thu giữ được gì.

Ngày 23/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc G đã kết luận:

“5.1.Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định: Mảnh viên nén màu nâu đượng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là chất ma túy MDMA(3,4- Methylenedioxymethamphetamine), có khối lượng 0,148 gam.

5.2. Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT2” đã được niêm phong gửi giám định: Chất bột màu trắng đựng trong 01 (môt) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu xanh là chất ma túy Ketamine, có khối lượng 0,276 gam.” Quá trình điều tra xác định như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 20/12/2019, Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T, Vũ Thị L, Nguyễn Thị Th và một người bạn của L tên là Thu (địa chỉ không biết) cùng ngồi ăn tối tại quán ở thôn My Điền 2, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, đến khoảng 23 giờ ngày 20/12/2019, Thu về trước, còn L, Th đi ra ngoài uống nước, lúc này chỉ còn H, G, T ngồi ăn với nhau nên cả ba rủ nhau cùng góp tiền đi mua ma túy về sử dụng nhưng không nói cho Th và L biết. T đi thanh T tiền ăn, còn G bảo L, Th về quán nước ở đầu thôn My Điền 2 ngồi uống nước đợi mọi người. T thanh T tiền ăn xong ra gặp H, G ở cửa quán rồi H dùng điện thoại di động Nokia của T gọi điện cho một người phụ nữ không quen biết hỏi mua 04 viên ma túy dạng kẹo và 01 chỉ ma túy dạng ke thì người phụ nữ đồng ý, hẹn đến đoạn đường gần cây xăng Tăng Tiến thuộc địa phận thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên để mua bán ma túy rồi H nói lại cho T và G biết địa điểm mua bán ma túy. Sau đó, G điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH, biển kiểm soát 98B3-461.95 của T chở T, H đến đoạn đường gần cây xăng Tăng Tiến để mua ma túy. Khi đến điểm hẹn, H dùng điện thoại của T gọi điện cho người phụ nữ bán ma túy thông báo H đã đến điểm hẹn, rồi bảo G, T đưa tiền cho H để mua ma túy. G đưa cho H 3.000.000 đồng nói là tiền của G và T góp. H cầm tiền, đứng đợi khoảng 05 phút thì có một xe ô tô loại 04 chỗ màu trắng, không rõ biển kiểm soát đi đến, đỗ cách chỗ H khoảng 10m. H đi bộ đến chỗ ô tô gặp người phụ nữ bán ma túy và hỏi hết bao Nhêu tiền thì người này nói số ma túy H hỏi mua hết tổng cộng 4.800.000đồng. H bỏ tiền của mình và G đưa cho ra đếm chỉ được 4.500.000 đồng nên đi bộ quay lại chỗ T và G đứng đợi nói cho cả hai biết thiếu 300.000 đồng thì T đưa cho H 300.000 đồng. H cầm tiền T đưa cho đi bộ một mình quay lại gặp người phụ nữa bán ma túy rồi đưa cho người này 4.800.000 đồng, người phụ nữ đưa lại cho H 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa bên trong chứa 04 viên ma túy MDMA dạng kẹo và 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy dạng ke. H cầm toàn bộ số ma túy mua được ở lòng bàn tay phải rồi đi bộ quay lại chỗ G và T nói đã mua được ma túy. Sau đó, G điều khiển xe mô tô chở H, T đi về cổng phòng trọ của T ở thôn My Điền 1, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên rồi T mang xe mô tô vào phòng cất, G gọi điện cho Th và L bảo đi về phòng trọ của T để đi cùng mọi người nhưng không nói cho biết đi đâu. Khoảng 05 phút sau, Th, L đi xe đạp điện về phòng trọ của T cất xe. Sau đó, H, G, T, L, Th cùng nhau đi xe tắc xi đi đến nhà nghỉ Bảo An ở thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G. Khi đến nhà nghỉ, H cầm theo số ma túy mua được vào thuê phòng rồi H cùng mọi người đi vào phòng 501 của nhà nghỉ để sử dụng ma túy. Khi vào trong phòng, H bỏ toàn bộ số ma túy mua được lên mặt bàn nhưng không nói gì rồi dùng điện thoại của T gọi điện cho một người con gái chỉ biết tên là Linh rủ đến nhà nghỉ để nói chuyện nam nữ thì Linh nói bận và sẽ bảo Đoàn Thị Phương Nh đến gặp H. Khoảng 10 phút sau Nh đi vào trong phòng, lúc nay T đưa đĩa sứ và túi ni lon đựng ma túy dạng ke cho Nh bảo Nh đi “xào” tức là chia ma túy để sử dụng còn H lấy tờ tiền quấn lại thành hình tròn để sử dụng ma túy ke. Nh cầm số ma túy và đĩa sứ T đưa cho đi vào nhà vệ sinh rồi dùng thẻ nhựa gắn ở khóa phòng 501 chia ma túy thành Nhều đường nhỏ khác nhau mang ra để xuống đệm dưới phòng. Sau đó, H, T, G cùng sử dụng ma túy dạng kẹo và ma túy dạng ke, thấy vậy Th, L, Nh cũng cùng nhau tự lấy ma túy để sử dụng nhưng Th chỉ sử dụng ma túy dạng kẹo, L sử dụng cả ma túy dạng ke và kẹo, Nh chỉ sử dụng ma túy dạng ke. H cùng mọi người sử dụng ma túy đến khoảng 01 giờ 40 phút ngày 21/12/2019, thì Công an huyện Việt Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy dạng kẹo và ke còn lại để ở trên mặt bàn trong phòng cùng toàn bộ dụng cụ sử dụng ma túy và các vật chứng khác có liên quan.

Ngày 14/01/2020, bà Cao Thị H1, sinh năm 1976 (mẹ T) tự nguyện giao nộp xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 98B3- 461.95.

Đối với các đối tượng Nguyễn Thị Th, Vũ Thị L, Đoàn Thị Phương Nh có hành vi tự sử dụng ma túy, không tham bàn bạc và không giúp sức cho các bị cáo mua ma túy về sử dụng nên ngày 21/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã ra quyết định trả tự do và ra quyết định xử phạt hành chính đối với cả 3 đối tượng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Nghị định định 167 của Chính phủ.

Đối với đối người phụ nữ bán ma túy, do các bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, quá trình điều tra chưa xác định được là ai nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tách ra để tiếp tục điều tra và đề nghị xử lý sau.

Anh Bùi Anh T1, sinh năm 1972 là chủ nhà nghỉ Bảo An, khi cho các bị cáo thuê phòng tại nhà nghỉ, không biết các bị cáo dùng phòng để sử dụng ma túy nhưng không thực hiện đúng các quy định về lưu trú nên Công an huyện Việt Yên đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với anh T1 về hành vi không thông báo lưu trú theo Nghị định 167 của Chính phủ.

Đối với điện thoại di động Nokia của T, H sử dụng để gọi điện mua ma túy, H khai đã bị rơi mất trước lúc Công an vào bắt quả tang, không biết rơi ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên không thu giữ được.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda SH, biển kiểm soát 98B3-461.95, quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên bị cáo T nhưng là tài sản do bà Cao Thị H1 là mẹ bị cáo mua và cho bị cáo đứng tên để làm phương tiện đi lại. Bà H1 không biết bị cáo sử dụng xe mô tô đi mua ma túy nên ngày 15/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã trả lại xe mô tô trên cho bà H1.

Từ hành vi trên của các bị cáo, cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 03/6/2020 của Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G đã truy tố Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa công khai sơ thẩm, các bị cáo thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, như cáo trạng truy tố và nội dung vụ án đã tóm tắt nêu trên, các bị cáo rất hối hận về việc làm của mình, thành khẩn khai báo và tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Chị L vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai tại cơ quan điều tra chị trình bầy chị là bạn Th cho nên chiều ngày 20/12//2019 Th rủ chị, H, T, anh G chồng Th và Thu đi ăn lẩu. Sau khi ăn lẩu xong thì Thu về trước còn Th và chị về quán uống nước đợi, đang ngồi uống nước thì Th bảo về phòng trọ của T. Sau đó cùng mọi người thuê tắc xi đến nhà nghỉ Bảo An ở thị trấn Nếnh rồi cùng nhau vào phòng 501 thì L và Th vào phòng vệ sinh khi ra đã thấy ma túy đẻ ở bàn L và Th lấy “kẹo” ở trên bàn bẻ một nửa uống với nước ngọt sau đó T đưa ma túy ke cho Nh đề Nh bê vào nhà vệ sinh xào sử dụng. Sử dụng ma túy được một tiếng thì bị bắt. Khi bị bắt Công an thu; 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền màu đỏ, bên trong có chứa mảnh viên nén màu nâu. 01 đĩa sứ màu trắng, trên mặt đĩa có chất bột màu trắng, cơ quan Công an thu chất cục bột màu trắng cho vào 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa viền màu xanh. 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, và thu giữ của chị 01 điện thoại di động Iphone màu xám và 1.040.000đồng; Nay yêu cầu xin lại điện thoại và 1.040.000đ để sử dụng.

Chị Th vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai tại cơ quan điều tra chị trình bầy chiều ngày 21/12//2019 chị và chị L anh H, T, và anh G chồng chị sau đó có chị Thu đi ăn lẩu. Sau khi ăn lẩu xong thì chị Thu về trước còn chị và L về quán uống nước đợi mọi người . Đang ngồi uống nước thì anh T gọi bảo về phòng trọ của T sau đi, không nói đi đâu. Sau đó chị cùng mọi người thuê tắc xi đến nhà nghỉ Bảo An ở Nếnh rồi cùng nhau vào phòng 501 thì chị và L vào phòng vệ sinh khi ra đã thấy ma túy để ở bàn, chị L và chị lấy “kẹo” ở trên bàn bẻ một nửa uống với nước ngọt. Sau đó Nh vào phòng vệ sinh xào ma túy. H sử dụng ma túy trước sau đến G, rồi T đến Nh còn chị và Lư không sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy được một tiếng thì bị bắt. Khi bị bắt Công an thu; 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền màu đỏ, bên trong có chứa mảnh viên nén màu nâu. 01 đĩa sứ màu trắng, trên mặt đĩa có chất bột màu trắng, cơ quan Công an thu chất cục bột màu trắng cho vào 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa viền màu xanh. 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, và thu giữ của chị 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu hồng nay xác định điện thoại là của chị và yêu cầu xin lại để sử dụng.

Bà Cao Thị H1 trình bầy bà là mẹ T năm nào bà không nhớ bà có mua một xe máy SH150 i biển kiểm soát 98B3-461.95 do tuổi cao cho nên bà làm đăng ký xe tên Hoàng Văn T để tiện cho việc sử dụng. Ngày 22/12/2019 T dùng xe máy SH150 i biển kiểm soát 98B3-461.95 này chở G đi mua ma túy bà không biết nay bà xác định chiếc xe đó là của bà và cơ quan điều tra đã trả cho bà nay bà không đề nghị gì.

Chị Đoàn Thị Phương Linh vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai tại cơ quan điều tra chị trình bầy khoảng 00 giờngày 21/12//2019 chị nhận được điên thoại của chị Linh gọi chị đến phòng 501 nhà nghỉ Bảo An thị Trấn Nếnh đến nơi chị thấy có anhH, anh G, anh T, chị Th, chị L đã ở trong phòng. Vào Phòng anh H hỏi có chơi không chị nói không sau đó anh T đưa đĩa và “ Ke” cho và nói em đi xào ke cho anh, chị hiểu đó là đi để ma túy ở đĩa hơ nóng tán nhỏ. Sau đó chị vào phòng tắm sào tán nhỏ và kẻ chia cho mọi người sử dụng. Sau khi sử dụng được một lúc thì Công an vào bắt quả tang. Khi bị bắt cơ quan điều tra thu chị 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu, có số Imei: 860565031764922 và 250.000đồng nay yêu cầu xin lại đẻ sử dụng.

Anh Bùi Anh T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai tại cơ quan điều tra anh trình bầy anh là chủ kinh doanh nhà nghỉ Bảo An khoảng 23 giờ ngày 20/12//2019 đang quản lý nhà nghỉ thì có 5, 6 nam nữ thanh nên đến thuê phòng nhà nghỉ đén khoảng 01 h ngày 21/12/2019 Công an đến bắt quả tang tại phòng 501 có nam nữa thanh niên sử dụng trái phép chất ma túy và thu giữ tang vật. Anh là chủ nhà nghỉ không biết nam nữ thanh niên thuê phòng để hút ma túy vì khi thuê phòng nói là để nghỉ có thu của anh 01 thẻ bằng nhựa có chữ Lioa mầu đỏ nay anh không yêu cầu gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Việt H từ: 16 tháng đến 19 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 21/12/2019).

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 17, 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Hà G từ: 13 tháng đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 21/12/2019 đến 23/01/2020).

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ: 13 tháng đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 21/12/2019 đến 23/01/2020).

Miễn hình phạt bổ xung cho các bị cáo.

Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2, 3 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,126 gam ma túy MDMA, 0,264 gam ma túy Ketamine còn lại sau giám định, 01 thẻ bằng nhựa có chữ Lioa màu đỏ, 01 đĩa sứ màu trắng, 01 mảnh giấy đầu lọc thuốc lá màu vàng trắng có chữ Vinataba - Tịch thu sung công: 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đồng

- Trả lại: Bị cáo T: 01 điện thoại di động Iphone màu đen, 1.250.000đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên T, bị cáo G: 01 điện thoại di động Iphone màu đỏ, 01 chứng minh nhân dân mang tên G nhưng tạm giữ lại tiền, điện thoại của hai bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án. Vũ Thị L: 01 điện thoại di động Iphone màu xám, 1.040.000đồng. Nguyễn Thị Th: 01 điện thoại di động Iphone màu hồng thu Đoàn Thị Phương Nh: 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu, có số Imei: 860565031764922 và 250.000đồng

-Về án phí:Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội phù hợp với lời khai người làm chứng; Khoảng 23 giờ ngày 20/12/2019, Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T cùng rủ nhau góp tổng 4.800.000 đồng rồi cùng nhau đến khu vực cây xăng xã Tăng Tiến thuộc địa phận xã Tăng Tiến huyện Việt Yên mua 04 viên ma túy MDMA dạng kẹo và 01 túi ma túy Ketamine của người không quen biết để sử dụng. Sau đó đã thuê phòng 501 nhà nghỉ Bảo An ở khu 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G để sử dụng với Vũ Thị L, Nguyễn Thị Th và Đoàn Thị Phương Nh. Đến khoảng 01 giờ 40 phút ngày 21/12/2019 thì bị bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy gồm 0,148 gam ma túy MDMA và 0,267 gam ma túy Ketamine và tang vật của vụ án.

Như vậy; Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự cho nên đại diện Viên kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T về tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự là phù hợp.

- Về tình tiết tăng nặng trách Nhệm hình sự: các bị cáo không phải chịu tình tiết tang nặng trách Nhệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách Nhệm hình sự: Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách Nhệm hình sự khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo G có bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3 đã có thời gian phục vụ trong quân đội, có Nhều thành tích cho nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây tác hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, tác động nghiêm trọng đến trật tự trị an xã hội mà Đảng và Nhà nước ta luôn trú trọng đấu tranh ngăn chặn, ảnh hưởng tới lao động sản xuất, gây hoang mang dao động và làm bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và góp phần ngăn đe phòng ngừa chung. Xét vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giản đơn giữa các bị cáo không có sự tổ chức, cấu kết chặt chẽ, không có sự phân công thực hiện hành vi phạm tội, tuy Nhên trong vụ án bị cáo Trương Việt H giữ vai trò chính bởi lẽ H đã là người nói với các bị cáo khác và là người trực tiếp điện thoại, là người trực tiếp cầm tiền giao dịch mua ma túy sau đến Hoàng Văn T và Đặng Hà G bởi lẽ sau khi H mua ma túy thiếu tiền quay lại lấy thì T là người trực tiếp đưa thêm tiền cho H vì vậy cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đáng kể đủ để cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhưng xét thấy các bị cáo sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải hơn nữa các bị cáo do trình độ văn hóa thấp, sự nhận thức hiểu biết về pháp luật và tác hại của chất ma tuý đối với con người còn hạn chế, nhất thời phạm tội do ăn chơi đua đòi vì vậy cũng cần chiếu cố giảm nhẹ cho các bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

Các bị cáo có sức khỏe, tuổi đời còn trẻ nhưng sớm ham chơi đua đòi, lười lao động cho nên cần phạt mỗi bị cáo 5.000.000đ xung công quỹ nhà nước là phù hợp với khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

Đối với Vũ Thị L, Nguyễn Thị Th và Đoàn Thị Phương Nh đã sử dụng ma túy cùng với các bị cáo nhưng không biết việc H, G, T mua ma túy về sử dụng cho nên, Trưởng Công an huyện Việt Yên đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Vũ Thị L, Nguyễn Thị Th và Đoàn Thị Phương Nh về hành vi này là có căn cứ.

- Về vật chứng của vụ án:

+ 01 phong bì thư đựng vật chứng ma túy còn lại sau khi giám định đã niêm phong bằng dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc G cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 đĩa sứ mầu trắng, 01 mảnh giấy thuốc lá đầu lọc mầu vàng trắng có chữ Vinataba mầu đỏ, 01 thẻ bằng nhựa có chữ Lioa mầu đỏ không còn gia trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu xung công quỹ nhà nước tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu đen thu của T và 1.250.000đ. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu đỏ thu của G, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu xám thu của L và 1.040.000đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu hồng của Th, 01 điện thoại di động không rõ tín hiệu có số Imei 860565031764922, của Nh và 250.000đ, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên T, 01 chưng minh thư mang tên G là tài sản của G, T, Th , L, Nh không liên quan đến việc tàng chữ chất ma túy cần trả cho G, T, Th , L, Nh nhưng tạm giữ của G, T để đảm bảo thi hành án.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 98B3-461.95, là tài sản của bà Cao Thị H1 là mẹ bị cáo T đứng tên bị cáo T để tiện sử dụng bà H1 không biết bị cáo T sử dụng xe mô tô đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã trả lại xe mô tô trên cho bà H1 nay bà H1 không yêu cầu cho nên không xem xét.

Đối với người phụ nữ H khai đã bán ma túy cho H do các bị cáo không biết họ tên, địa chỉ, quá trình điều tra chưa xác định được cho nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên tách ra để điều tra và xử lý sau là phù hợp.

Về án phí; Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt, xử lý tang vật cơ bản là phù hợp với pháp luật cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trương Việt H, Đặng Hà G, Hoàng Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ vào điểm i khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự; Điều 331; Điều 332, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự đối với Trương Việt H và Hoàng Văn T.

Xử phạt; Trương Việt H 18 (Mười tám) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 21/12/2019 Phạt Trương Việt H 5.000.000đ xung công quỹ nhà nước Xử phạt; Hoàng Văn T 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được trừ những ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2019 đến ngày 23/01/2020.

Phạt Hoàng Văn T 5.000.000đ xung công quỹ nhà nước Căn cứ vào điểm i khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự; Điều 331; Điều 332, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt; Đặng Hà G 13 (Mười ba) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được trừ những ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2019 đến ngày 23/01/2020 Phạt Đặng Hà G 5.000.000đ xung công quỹ nhà nước.

- Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2,3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch Thu tiêu hủy; 01 phong bì thư đựng vật chứng ma túy còn lại sau khi giám định đã niêm phong có dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc G. 01 đĩa sứ mầu trắng, 01 mảnh giấy thuốc lá đầu lọc mầu vàng trắng có chữ Vinataba mầu đỏ, 01 thẻ bằng nhựa có chữ Lioa mầu đỏ. Tịch thu xung công quỹ nhà nước tờ 10.000 đồng.

+ Trả cho Hoàng Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu đen thu và 1.250.000đ, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Văn T. Trả lại cho Đặng Hà G 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu đỏ, 01 chứng minh thư mang tên Đặng Hà G nhưng tạm giữ lại tiền và điện thoại để đảm bảo thi hành án. Trả chị Chị Vũ Thị L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu xám và 1.040.000đ, trả cho chị Nguyễn Thị Th; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu hồng, trả cho chị Đoàn Thị Phương Nh; 01 điện thoại di động không rõ nhãn hiệu có số Imei 860565031764922 và 250.000đ. Toàn bộ số tiền đã được nộp tại kho bạc nhà nước huyện Việt Yên, tỉnh Bắc G, theo hóa đơn nộp tiền đề ngày -Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo Trương Việt H, Hoàng Văn T, Đặng Hà G mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết quyền được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2020/HS-ST

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;