Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2022/QĐXXST-HS ngày 12/4/2022 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Minh Q, sinh năm: 1985. Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: số 47 ngõ 87, đường L, tổ 2b, phường Đ, quận H, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm: 1954; Con bà: Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1956; Gia đình có bị can là con duy nhất; Vợ, con: chưa có. Tiền án: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 278/ HSST ngày 22/6/2011, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử 24 tháng tù về tội” tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ra trại 08/12/2012 (đã xóa án).

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 03/01/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Tiết Như H, sinh 1992. Hộ khẩu thường trú: Ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Chỗ ở: Số 6, ngõ 180 đường Đ, phường M 1, quận Nam Từ Liêm, hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 03/01/2022, Tổ công tác đội Cảnh sát Cơ động C2D1- PK02E - Công an thành phố Hà Nội, đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Đ, phường M 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội, phát hiện Nguyễn Minh Q đang ngồi trên xe máy BKS: 29X6 – X có biểu hiện nghi vấn . Yêu cầu kiểm tra phát hiện trong cạp quần phía sau bên phải của Q có 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, Q khai đó là ma túy “đá” Q đang đợi bạn là H đến để cùng sử dụng. Qua rà soát, Tổ công tác phát hiện Tiết Như H (SN: 1992- NKTT: Ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H) đang đi ra gặp Q. Tổ công tác tiến hành lập biên bản, dẫn giải Nguyễn Minh Q cùng Tiết Như H về trụ sở Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ .

*Tang vật thu giữ:

1. Thu giữ của Nguyễn Minh Q:

- 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (1x2cm) bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy;

- 01 xe máy hiệu nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ, BKS: 29X6 – X, số khung 581287, số máy 6581336;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, màu xanh thẫm, bên trong gắn sim số 1: 07X8904; sim số 2: 0969X474;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A7 màu vàng, bên trong gắn sim số 1: 03284X25, sim số 2: 083X9604 (BL37, 51).

2. Thu giữ của Tiết Như H:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 083X1992 (BL56) ;

Quá trình điều tra xác định:

Nguyễn Minh Q là đối tượng sử dụng ma túy “đá” có quen biết từ trước với bạn xã hội là Tiết Như H. Khoảng 23 giờ ngày 02/01/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Q điều khiển xe máy hiệu Honda Wave RSX mang BKS: 29X6 - X đến khu vực trước cổng bệnh viện B, phường Đ, quận H Hà Nội gặp và tìm mua ma túy. Tại đây, Q gặp và nhờ một người đàn ông lái xe ôm tên T1 (hiện không xác định được nhân thân, lai lịch) mua hộ 550.000 đồng tiền ma túy (trong đó tiền công mua 50.000 đồng). Khoảng 10 phút sau, T1 quay lại đưa cho Q một túi nilon bên trong chứa tinh thể ma túy “đá”. Sau khi mua được ma túy, Q sử dụng ứng dụng Zalo nhắn tin, gọi điện rủ Tiết Như H cùng sử dụng ma túy. H đồng ý và hẹn Q đến phòng trọ của H tại số 6 ngõ 180 đường Đ, phường M 1, quận Nam Từ Liêm sử dụng.

Khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, Q cất giấu túi nilon ma túy “đá” vào trong cạp quần phía sau bên phải rồi điều khiển xe máy BKS: 29X6 - X đến số 6 ngõ 180 đường Đ, phường M 1, quận Nam Từ Liêm để gặp H. Khi đến nơi, Q gọi điện thông báo cho H, đúng lúc này H xuống mở cửa cho bạn cùng phòng là Hồ Dịu H1 (SN:1997- NKTT: tổ 12, phường M, quận N, tỉnh Đ) ra ngoài thì H nhìn thấy hai người đi xe máy phía sau Q nên nghĩ có người theo dõi Q nên đã quay vào nhà khóa cửa cổng lại và thay đổi ý định không sử dụng ma túy cùng Q nữa. Ngay sau đó, H đã gọi điện thoại bảo Q vứt ma túy xuống trước cửa nhà hết bao nhiêu tiền thì H sẽ trả cho Q sau nhưng Q không đồng ý mà muốn H ra để gặp và nói chuyện. Khoảng 30 phút sau, H gọi điện thoại lại cho Q thì biết Q vẫn đang đứng đợi tại đầu ngõ 180 nên H cầm theo 300.000 đồng với ý định gặp đưa cho Q tiền đổ xăng để Q đi về thì bị Cảnh sát Cơ động C2D1 – PK02E Công an thành phố Hà Nội, phát hiện dẫn giải Q và H về trụ sở Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ.

* Tại Kết luận giám định số 300 ngày 11/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,324 gam.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Minh Q, Tiết Như H khai nhận hành vi như đã nêu trên.

Tiết Như H khai, không biết gì về nguồn gốc, số lượng ma túy mà Q cất giấu.

Sau khi Q mua được ma túy mới nảy sinh ý định rủ Tiết Như H sử dụng cùng. Q không nói cho H biết về nguồn gốc, số lượng ma túy mà Q mang theo người nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý đối với Tiết Như H.

Đối với người đàn ông tên “T1” là người mua ma túy hộ Q (như Q khai). Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Đối với chiếc xe máy hiệu nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đỏ, BKS: 29X6 – X thu giữ của Q khi bắt giữ. Quá trình điều tra, xác minh xác định người đứng tên đăng ký chiếc xe trên là anh Nguyễn Khánh T2 (SN: 1977 – NKTT: số 88, ngõ 133, phố T, phường P, quận B, thành phố H – là anh họ của Q). Khoảng tháng 12/2021, anh Tường cho Q mượn, anh T không biết Q sử dụng vào việc tàng trữ ma túy. Do đó, ngày 25/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm Quyết định xử lý vật chứng số 30, trao trả chiếc xe trên anh Nguyễn Khánh T là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại bản cáo trạng số 74/CT - VKS ngày 06/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Nguyễn Minh Q bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Minh Q khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Minh Q đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Nguyễn Minh Q mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Tòa tuyên:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Nguyễn Minh Q và giám định viên.

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, màu xanh thẫm, bên trong gắn sim số 1: 07X8904; sim số 2: 0969X474 ( thu của Nguyễn Minh Q); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 083X1992 (thu của Tiết Như H).

Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 03/01/2022, tại số 6 ngõ 180 đường Đ, phường M 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Minh Q đang có hành vi cất giấu trái phép 0,324 gam ma tuý loại Methamphetamine mục đích để sử dụng, thì bị Tổ công tác Cảnh sát cơ động C2D1- PK02E - Công an thành phố Hà Nội, phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Minh Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để sử dụng. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Q thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt tù về hành vi tàng trữ ma túy đã được xóa án tích nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc với bị cáo.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm là: 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Nguyễn Minh Q và giám định viên cần tuyên tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, màu xanh thẫm, bên trong gắn sim số 1: 07X8904; sim số 2: 0969X474 (thu của Nguyễn Minh Q); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 083X1992 (thu của Tiết Như H) – liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Trả lại bị cáo điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A7 màu vàng không liên quan đến việc phạm tội.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Minh Q 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2022.

Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Nguyễn Minh Q và giám định viên.

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, màu xanh thẫm, bên trong gắn sim số 1: 07X8904; sim số 2: 0969X474; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen, gắn sim số 083X1992.

+ Trả lại bị cáo điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A7 màu vàng, bên trong gắn sim số 1: 03284X25, sim số 2: 083X9604.

(Các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 125 ngày 07/04/2022) Bị cáo Nguyễn Minh Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;