Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Hữu Tr, sinh năm 1974; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi sinh: Tỉnh Nam Định; nơi cư trú tại: Xóm 14, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 6/12; con ông: Phạm Hữu L, sinh năm 1952 và bà: Lê Thị N, sinh năm 1951; gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; có vợ Vũ Thị Th và có 3 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12-8-2008 Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 29-3-2017 Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21-12-2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định (Có mặt).

Người làm chứng:

1. Ông Phạm Bá Q, sinh năm 1944 (Vắng mặt).

2. Ông Bùi Văn T, sinh năm 1960 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 20-12-2021, tổ công tác Công an phường Quang Tr, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 34 Đò Quan, xã N, thành phố N phát hiện Phạm Hữu Tr điều khiển xe máy biển kiểm soát 29 V5-0964 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trên tay phải của Tr 03 gói nhỏ ni lông màu hồng bên trong đều có gói giấy bạc màu trắng, chứa chất bột dạng cục màu trắng (Tr khai là gói heroine). Tổ công tác tiến hành thu giữ niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với Phạm Hữu Tr. Ngoài ra còn tạm giữ của Tr chiếc xe máy biển kiểm soát 29 V5-0964.

Bản kết luận giám định số 72/GĐKTHS ngày 28-12-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 gói nhỏ giấy bạc màu trắng, bên ngoài đều bọc ni lông màu hồng thu giữ của bị cáo được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine, khối lượng mẫu 0,225 (Không phẩy hai trăm hai mươi lăm) gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Hữu Tr khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20-12-2021, Tr điều khiển xe máy biển kiểm soát 29 V5-0964 đi từ chỗ làm (ở gần nhà) đến một ngôi nhà (không nhớ địa chỉ cụ thể) ở khu vực gầm cầu Đò Quan, thành phố N đưa 300.000 đồng qua ô cửa cho cháu bé đang ở trong nhà, cháu bé cầm tiền đi vào sau đó quay lại đưa cho Tr 03 gói Heroine được gói bằng tùi ni lông màu hồng. Tr cầm số Heroine vừa mua trên tay phải rồi điều khiển xe đi về tìm nơi sử dụng. Khi đi đến trước cửa số nhà 34 Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đối tượng đã bán gói ma tuý cho Phạm Hữu Tr và chiếc xe máy biển kiểm soát 29 V5-0964 thu giữ của Tr do chưa đủ căn cứ kết luận, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 82/CT-VKSTPNĐ ngày 11-3-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Phạm Hữu Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây được viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hữu Tr khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên toà, luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đánh giá mức độ hành vi phạm tội, nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo Phạm Hữu Tr có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Kiểm sát viên đã giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo Phạm Hữu Tr từ 24 đến 27 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng là số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo Phạm Hữu Tr không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hữu Tr không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Hữu Tr tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; Lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 20-12-2021, tại khu vực trước cửa số nhà 34 Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố N, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép ma tuý mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo Phạm Hữu Tr là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội; bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,225 gam Heroine nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS nên quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3.1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Phạm Hữu Tr đã thành khẩn khai báo đối với hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[3.2] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Hữu Tr là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo là người có nhân thân xấu đã 02 lần bị đưa ra xét xử (đã được xóa án tích) vì vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nghiêm khắc cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung, tương ứng với hành vi tàng trữ trái phép 0,225 gam Heroine như đề xuất của Kiểm sát viên là tương đối phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Phạm Hữu Tr là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số Heroin thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước độc quyền quản lý, cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Hữu Tr bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS;

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu Tr 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21-12-2021.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 72/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định. (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố N và Chi cục thi hành án Dân sự thành phố N).

4. Án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Phạm Hữu Tr phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Phạm Hữu Tr có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;