Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 26/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 11/11/1977; tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 2; con ông: Lò Văn C, sinh năm 1949 và con bà: Lò Thị C, sinh năm 1954; bị cáo có vợ là Hoàng Thị Ư, sinh năm 1979 và có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân của bị cáo: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/4/2021 đến ngày 07/4/2021 và bị tạm giam từ ngày 07/4/2021 cho đến nay; bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo có: Bà Nguyễn Thị Th - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 05/4/2021, T từ nhà ở bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên đi tìm mua Heroine để sử dụng. Khi T đi đến khu vực trạm y tế xã Mường Thín thuộc bản Thín A, thì gặp một người đàn ông trông giống như người nghiện chất ma túy (T không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu). T liền hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 100.000đ. Sau khi mua bán Heroine xong, người đàn ông đó đi đâu T không biết, còn T cất giấu gói Heroine vào trong túi áo khoác đang mặc và quay về nhà. Khi về đến nhà, T bỏ gói Heroine ra và lấy mảnh nilon màu đen và gói lại rồi cất vào túi bên phải của áo khoác vắt ở ghế khu vực bàn uống nước, mục đích để sử dụng. Đến 19 giờ 20 phút cùng ngày, khi T đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T 01 gói Heroine được bọc bằng nilon màu đen. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã tiến hành lập biên bản thu giữ vật chứng, lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Bị cáo và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở gói niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 01 gói nghi Heroine thu giữ của bị cáo được xác định tổng khối lượng 0,19 gam và trích 0,05 gam làm mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 68 ngày 09/4/2021. Tại bản Kết luận giám định số: 410/GĐ-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 57/CT-VKS-TG ngày 12 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu tuyên hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1977, trú tại bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Có khối lượng 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) Heroine. tịch thu 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu đen, một vỏ gói niêm phong đã cũ dùng để niêm phong vật chứng tiêu hủy. Tịch thu của bị cáo chiếc áo khoác đen để tiêu hủy, do chiếc áo không còn giá trị sử dụng. Đề nghị áp dụng Điều 136 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo: Theo tài liệu có trong hồ sơ thì thấy, bị cáo đã tự giác giao nộp 01 gói Heroine mà bị cáo mua với mục đích để sử dụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo; đồng thời đề nghị HĐXX xem xét hoàn cảnh nhân thân của bị cáo, bản thân bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh kinh tế khó khăn phụ thuộc thu nhập từ nông nghiệp. Từ những nhận định nêu trên đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với lời khai có trong các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 05/4/2021, T từ nhà ở bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên đi tìm mua Heroine để sử dụng. Khi T đi đến khu vực trạm y tế xã Mường Thín thuộc bản Thín A, thì gặp một người đàn ông trông giống như người nghiện chất ma túy (T không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu). T liền hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 100.000đ. Sau khi mua bán Heroine xong, người đàn ông đó đi đâu T không biết, còn T cất giấu gói Heroine vào trong túi áo khoác đang mặc và quay về nhà. Khi về đến nhà, T bỏ gói Heroine ra và lấy mảnh nilon màu đen và gói lại rồi cất vào túi bên phải của áo khoác vắt ở ghế khu vực bàn uống nước, mục đích để sử dụng. Đến 19 giờ 20 phút cùng ngày, khi T đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T 01 gói Heroine được bọc bằng nilon màu đen. Khi bị cáo và vật chứng được đưa về Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo; đã tiến hành mở niêm phong vật chứng thu giữ để xác định khối lượng, có sự chứng kiến của bị cáo và bị cáo đã thừa nhận khối lượng Heroine thu giữ là 0,19 gam được xác định là hoàn toàn chính xác. Qua hành vi của bị cáo có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo: Khối lượng Heroine bị thu giữ của bị cáo là 0,19 gam nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng; bởi vậy với hành vi và khối lượng Heroine thu giữ bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; bị cáo đi học hết lớp 2 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 2000 kết hôn với chị Hoàng Thị Ư, sinh năm 1979 và có 02 người con. Năm 2013 bị Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về tội Trộm cắp tài sản, Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo tuyên phạt 15 tháng tù, đến tháng 5/2014 chấp hành xong hình phạt. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong những năm qua Nhà nước đã tốn sức người, sức của để phòng chống tệ nạn ma túy; những cuộc tuyên truyền về tác hại ma túy đã đến được với người dân, bản thân bị cáo cũng thừa nhận mình đã được tiếp cận từ những cuộc tuyên truyền đó và hiểu rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, nhưng vì bản thân không vượt qua được những cám dỗ, đua đòi cùng bạn bè sử dụng ma túy. Từ những lần sử dụng ma túy đó dẫn đến bản thân nghiện ma túy, cũng chính vì để thỏa mãn cơn nghiện ma túy mà bị cáo bất chấp quy định của pháp luật mua ma túy để sử dụng. Hơn nữa bị cáo đã được cải tạo giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để thay đổi, sửa chữa lỗi lầm của bản thân mà tiếp tục tái nghiện ma túy. Qua hành vi của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo thiếu ý thức rèn luyện, coi thường pháp luật. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội để giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Theo khoản 5 Điều 249 BLHS quy định; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tuyên mức hình phạt đối với bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy về đề nghị mức hình phạt là chưa phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo HĐXX xét thấy: Với tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh của bị cáo, khối lượng ma túy thu giữ thì đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ, vì vậy HĐXX không chấp nhận.

[8] Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán heroine cho bị cáo, nhưng khi mua bị cáo không hỏi tên tuổi địa chỉ ở đâu nên không có cơ sở xác minh làm rõ, do đó tại vụ án này HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Cần Tịch thu 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1977, trú tại bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Có khối lượng 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) Heroine; do số ma túy thu giữ là chất Nhà nước cấm lưu hành, tịch thu 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu đen, một vỏ gói niêm phong đã cũ dùng để niêm phong vật chứng tiêu hủy. Tịch thu của bị cáo chiếc áo khoác đen để tiêu hủy, do chiếc áo không còn giá trị sử dụng.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Không ai có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 13 (Mười ba) tháng tù; thời gian thi hành án phạt tù tính từ ngày 05/4/2021.

3. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1977, trú tại bản T, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Có khối lượng 0,14g (Không phẩy mười bốn gam) Heroine. Tịch thu 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu đen, một vỏ gói niêm phong đã cũ dùng để niêm phong vật chứng và 01 áo khoác màu đen của Lò văn T cũ đã qua sử dụng để tiêu hủy.

Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lò Văn T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 26/7/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;