Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2023/QĐXXST-HS ngày 06/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng A L Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 24/8/1958; Tại: T, Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản P, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Dao; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Hoàng S (đã chết); con bà Lù Thị Đ, đã chết. Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Tẩn Thị G, sinh năm 1960, con: 06 con, con lớn nhất sinh năm 1984, con nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/4/2023 đến ngày 28/4/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tam Đường có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Tẩn Thị G , sinh năm 1960. Địa chỉ: Bản P, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt có lý do)

- Người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa: Bà Lù Thị V, sinh năm 1972. Địa chỉ: Bản A, xã A, thành phố L, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hoàng A L, sinh ngày 24/8/1958, trú tại bản P, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu, L khai bản thân là người nghiện chất ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 25/4/2023, L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25F3-X1 (thuộc sở hữu của L và vợ là Tẩn Thị G) đi mua xăng tại xã A, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Sau khi mua xăng, L đi đến nhà Lù Thị V, sinh năm 1972, trú tại bản A, xã A, thành phố Lai Châu, qua nói chuyện L mua của V 01 gói Heroine (gói bằng mảnh nilon màu xanh) giá 150.000 đồng. Mua được ma túy, L cất giấu gói Heroine trong gấu quần bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Hồi 18 giờ 15 phút ngày 25/4/2023, khi Hoàng A L đi đến bản M, xã G, huyện T, tỉnh Lai Châu thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang, vật chứng thu giữ của L là 01 gói Heroine và 01 xe mô tô biển kiểm soát 25F3-X1.

Tại bản Kết luận giám định số 505/KLGĐ ngày 25/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Số chất bột màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,12 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 506/KL-KTHS ngày 27/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 61/CT-VKSTĐ, ngày 03/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố bị cáo Hoàng A L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Quá trình điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Tẩn Thị G trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25F3- X1 là tài sản hợp pháp của bị cáo Hoàng A L và bà Tẩn Thị G, thường ngày bị cáo Hoàng A L là người sử dụng chiếc xe trên vì bà G không biết đi xe máy, việc bị cáo sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy bà G hoàn toàn không biết, nay đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe trên cho bà Tẩn Thị G, ngoài ra không có ý kiến gì thêm.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện Tam Đường giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng A L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng A L từ 14 tháng đến 20 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 25/4/2023. Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25F3-X1 thu giữ của Hoàng A L. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng A L theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng A L không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Hoàng A L xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường, Điều tra V, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường, Kiểm sát V trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Hoàng A L đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Hồi 18 giờ 15 phút ngày 25/4/2023, tại bản M, xã G, huyện T, tỉnh Lai Châu, Hoàng A L đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,12 gam, mục đích để sử dụng thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lai Châu bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, làm tổn hại cho sức khỏe, nhân phẩm của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy, đủ cơ sơ để khẳng định hành vi của bị cáo Hoàng A L đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình thuộc hộ nghèo. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 0,12 gam (Không phẩy mười hai gam) heroine thu giữ của bị cáo Hoàng A L đã gửi đi giám định không hoàn lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25F3-X1 thu giữ của Hoàng A L, trong đơn xin xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tẩn Thị G đề nghị trả lại chiếc xe trên cho bà G, Xét thấy, quá trình điều tra xác định bị cáo Hoàng A L là người trực tiếp thực hiện việc mua bán xe với chủ sở hữu cũ và trực tiếp sử dụng chiếc xe trên, bà G không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh chiếc xe là tài sản riêng của bà G. Chiếc xe được xác định là tài sản chung của bị cáo và bà G, tuy bà G khai không biết việc bị cáo sử dụng xe vào mục đích phạm tội nhưng chiếc xe là vật chứng vụ án, là công cụ phương tiện phạm tội, không phải là đối tượng tranh chấp của vụ án dân sự và không phải là là đối tượng của vụ việc phân chia tài sản chung. Đồng thời, chủ sở hữu cần phải có trách nhiệm đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự “Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội...thì bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước hoặc tiêu hủy”. Như vậy, chiếc xe là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước, do vậy không chấp nhận đề nghị của bà Tẩn Thị G.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Hoàng A L khai mua của người tên là Lù Thị V. Cơ quan điều tra đã lấy lời khai, tiến hành đối chất giữa L và V nhưng V không thừa nhận việc bán ma túy cho L. Ngoài lời khai của L, quá trình điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, không đủ căn cứ kết luận Lù Thị V thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đối với Tẩn Thị G là đồng sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25F3- X1. Quá trình điều tra xác định G không biết việc L sử dụng chiếc xe mô tô để đi mua ma túy sử dụng. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Tẩn Thị G là đúng quy định.

[7] Về án phí:

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng A L đề nghị hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Xét thấy, bị cáo Hoàng A L là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo theo quy định Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng A L thuộc trường hợp miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng A L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hoàng A L 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25/4/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25F3-X1 thu giữ của Hoàng A L.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 10 phút ngày 03/8/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng A L.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;