Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 69/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 69/2022/HSST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20/7/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 68/2022/TLST-HS ngày 27/5/2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2022/HSST-QĐ ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: HOÀNG VĂN C; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 18/01/2000, tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Lò Văn X, sinh năm 1971 và bà Lò Thị X, sinh năm 1970; Gia đình bị cáo có 05 anh, chị, em; bị cáo là con thứ hai; Bị cáo C sống như vợ chồng với chị Hà Thị C, sinh năm 1990, trú tại bản H, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu (không đăng ký kết hôn); Bị cáo chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ 17 giờ 50 phút ngày 09/02/2022, tạm giam từ ngày 18/02/2022, tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay (có mặt).

2. Họ và tên: LÒ VĂN L; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 30/5/1996, tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lò Văn T, sinh năm 1959 và bà Lò Thị Đ, sinh năm 1967; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ 17 giờ 50 phút ngày 09/02/2022, tạm giam từ ngày 18/02/2022, tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan:

1. Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS - Chi nhánh Hà Nội.

Địa chỉ: Tầng 3, Tòa nhà V, số 519 K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình Đ - Phó tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đào Văn L - Chuyên viên pháp lý tố tụng (có mặt).

2. Chị Hà Thị C, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Bản H, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 09/02/2022, Hoàng Văn C điều khiển xe mô tô của gia đình chở Lò Văn L đi từ bản H, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu đến chợ xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu để tìm mua lưới bắt cá. Trên đường đi, C rủ L đi lên bản N, xã P, huyện T tìm mua Heroine sử dụng, L đồng ý. Khi đến đầu bản N, L góp 40.000 đồng, C góp 10.000 đồng. Sau đó, C bảo L đứng trông xe để C đi bộ vào trong bản N mua 01 gói Heroine của 01 người phụ nữ không rõ lai lịch với giá 50.000 đồng. Mua được Heroine, C quay lại đưa gói Heroine vừa mua được cho L cầm trong lòng bàn tay phải. Sau đó, C điều khiển xe mô tô chở L, mục đích mang Heroine về nhà tại bản L, xã M, huyện T để cùng nhau sử dụng. Đến 15 giờ 20 phút cùng ngày, khi C và L đi đến bản K, xã P, huyện T thì bị Công an huyện T bắt quả tang. Vật chứng thu giữ trong lòng bàn tay phải của L 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng. Ngoài ra, Công an huyện còn thu giữ của Hoàng Văn C 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Blade, màu sơn đen - trắng (xe không gắn biển kiểm soát).

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 36/KLGĐ ngày 09/02/2022 của người giám định theo vụ việc và bản Kết luận giám định số 191/GĐ-KTHS ngày 15/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “Mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Hoàng Văn C, Lò Văn L có khối lượng 0,14 gam; là ma túy, loại: Heroine”.

Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 25/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, truy tố các bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian và địa điểm phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58/Bộ luật hình sự đối với cả hai bị cáo, đề nghị tuyên phạt Hoàng Văn C, Lò Văn L mỗi bị cáo với mức án từ 14 đến 20 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho cả hai bị cáo.

Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47/Bộ luật hình sự, Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,06 gam Heroine còn lại; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 bì niêm phong vật chứng ban đầu; Đề nghị tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách Nhà nước phần giá trị còn lại của chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Blade, màu sơn đen - trắng của Hoàng Văn C sau khi đã thực hiện việc trả nợ cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Đại diện theo ủy quyền của Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội trình bày: Giữa Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội và Hoàng Văn C có hợp đồng bảo lãnh khoản vay để C mua chiếc xe mô tô, nay đề nghị HĐXX trả lại chiếc xe mô tô đã thu giữ của Hoàng Văn C hoặc phát mại chiếc xe nêu trên để ưu tiên thanh toán cho HS số tiền gốc còn lại là 10.369.991 đồng và 917.728 đồng tiền lãi phát sinh và phí bảo hiểm, tổng cộng là 11.287.719 đồng của chiếc xe nói trên tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty.

Chị Hà Thị C trình bày: Khi Hoàng Văn C dùng chiếc xe nói trên để đi mua ma túy, chị không biết, chị đã 04 lần thay mặt Hoàng Văn C trả nợ theo kỳ hạn cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội, mỗi lần hơn 2 triệu đồng, nay chị không yêu cầu Hoàng Văn C hoàn trả số tiền chị đã trả cho HS.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ án theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42/Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội và cấu thành tội phạm: Vào khoảng hơn 15 giờ ngày 09/02/2022, tại bản K, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu, Hoàng Văn C, Lò Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hành vi các bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo là những người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Ma tuý đang là nỗi nhức nhối trong đời sống xã hội, và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó mọi hành vi phạm tội L quan tới ma tuý cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về mục đích phạm tội của các bị cáo: Hoàng Văn C, Lò Văn L là các đối tượng nghiện chất ma túy, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy là để phục vụ nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân các bị cáo.

[5]. Về nhân thân các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Hoàng Văn C, Lò Văn L là những người được sinh ra trong gia đình lao động, các bị cáo mặc dù có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu khó tu dưỡng rèn luyện mà ăn chơi đua đòi dẫn đến bị nghiện chất ma túy. Để có ma túy thỏa mãn nhu cầu của bản thân, các bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy dưới bất cứ hình thức nào, tàng trữ chất ma túy với mục đích gì đều bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, cai nghiện trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa phương có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho cả hai bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hoàng Văn C, Lò Văn L đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52/Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng bàn bạc, thống nhất thực hiện hành vi phạm tội, tính chất nguy hiểm cho xã hội từ hành vi phạm tội hai bị cáo thực hiện là ngang nhau nên trách nhiệm hình sự và hình phạt các bị cáo phải chịu là tương đương nhau.

[6]. Về vật chứng: Khối lượng 0,06 gam Heroine còn lại sau giám định là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu xét thấy không còn giá trị nên cần tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Blade, màu sơn đen - trắng không gắn biển kiểm soát thu giữ của Hoàng Văn C, mặc dù theo lời khai của C và chị Hà Thị C là tài sản C của C và chị C, chị C vẫn trả tiền nợ khi mua xe, tuy nhiên chếc xe là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tôi, theo quy định tại Điều 47/Bộ luật hình sự, Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự cần phải tịch thu, hóa giá và sung vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên chiếc xe đang là tài sản thế chấp để đảm bảo khoản vay giữ bị cáo Hoàng Văn C và Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội, tại thời điểm Hoàng Văn C dùng chiếc xe đang thế chấp để thực hiện hành vi phạm tội, Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS không có lỗi. Để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS nên cần giao chiếc xe nêu trên cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện T hóa giá để thực hiện nghĩa vụ thanh toán số nợ còn lại của bị cáo C cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS. Số tiền còn lại (nếu có) sau khi thanh toán cho HS sẽ sung vào Ngân sách Nhà nước.

[7]. Về vấn đề L quan trong vụ án:

Về nguồn gốc Heroine, Hoàng Văn C khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ lai lịch tại bản N, xã P, huyện T nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8]. Về án phí: Các bị cáo là những người dân tộc thiểu số, sinh sống tại bản L, xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu là địa phương đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc), tại phiên tòa đều có đề nghị được miễn án phí nên sẽ được miễn án phí HSST.

[9]. Về biện pháp ngăn chặn: Tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam đối với các bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58/Bộ luật hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, Điều 331, Điều 333/Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ, khoản 1 Điều 12/Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt các bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L mỗi bị cáo 14 (mười bốn) tháng tù; Thời hạn tù của hai bị cáo tính từ ngày 09/02/2022. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho cả hai bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tịch thu 0,06 gam Heroine còn lại;

01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong vật chứng ban đầu để tiêu hủy; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước giá trị còn lại của 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Blade, màu sơn đen - trắng của Hoàng Văn C bằng hình thức giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Lai Châu hóa giá, để thanh toán tổng số tiền nợ 11.287.719đ (mười một triệu hai trăm tám mươi bảy nghìn bảy trăm mười đồng), bao gồm cả tiền gốc, lãi suất phát sinh và phí bảo hiểm tính đến ngày xét xử sơ thẩm mà Hoàng Văn C còn nợ cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội. Sau khi thực hiện xong việc thanh toán cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội (cả gốc và lãi), số tiền còn lại (nếu có) sẽ sung vào ngân sách Nhà nước. Trường hợp thông qua việc hóa giá tài sản là chiếc xe mô tô nêu trên không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Hoàng Văn C cho Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội, thì Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HS- Chi nhánh Hà Nội có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác đối với Hoàng Văn C.

Các vật chứng nêu trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 08/6/2022 giữa Cơ quan CSĐT - Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Về án phí: Các bị cáo Hoàng Văn C, Lò Văn L được miễn án toàn bộ phí.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 69/2022/HSST

Số hiệu:69/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;