Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/8/2023, tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2023/QĐXXST-HS ngày 14/8/2023 đối với bị cáo:

Đinh Văn H (tên gọi khác: không), sinh ngày 09/6/1993 tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: bản P, xã HT, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: K; giới tính: nam; tôn giáo: không; đảng phái, đoàn 1 thể: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn N, sinh năm 1944, con bà Phan Thị T, sinh năm 1958; bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: có 01 tiền án ngày 22/7/2021 bị Tòa án nhân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chưa được xoá án);

Tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 04/12/2012 bị UBND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La ra Quyết định về việc cưỡng chế người nghiện ma túy vào chữa trị tại Trung tâm Giáo dục-Lao động huyện, thời gian 13 tháng, - Ngày 15/12/2016 bị Công an huyện Phù Yên xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác;

- Ngày 25/11/2016 bị TAND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian là 24 tháng, bị cao bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2023 đến ngày xét xử. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 03/6/2023 tổ công tác Công an thị trấn Phù Yên làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu X, thị trấn Phù Yên, huyện Phù Yên tiến hành kiểm tra hành chính đối với Đinh Văn H. Quá trình kiểm tra, Đinh Văn H tự giác giao nộp 01 gói ma tuý đang cầm trên tay cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói ma tuý được gói bằng 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng, số seri HM3185333 H khai là heroine.

Ngày 03/6/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã tiến hành mở niêm phong cân tịnh vật chứng 01 gói ma tuý được gói bằng 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng số seri HM3185333 có tổng khối lượng 0,322 gam, lấy 0,071 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu H1. Số còn lại 0,251 gam, ký hiệu H2 niêm phong lại, đồng thời ra Quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và Quyết định trưng cầu giám định tiền 2.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số: 1449/KL-KTHS ngày 06/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

Mẫu ký hiệu H1 gửi giám định là ma túy; Loại Heroine, có tên khoa học là Diacetylmorphine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,071 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,322 gam, loại Heroine có tên khoa học là Diacetylmorphine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại Kết luận giám định số: 1451/KL-KTHS ngày 06/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: số tiền VNĐ gửi giám định (01 tờ tiền VNĐ có mệnh giá 2.000 đồng, có mã số hiệu là MH 3185333) là tiền thật.

Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 03/6/2023 H đang ở nhà anh Đinh Văn G (anh rể) tại bản P, xã HT thì có người tên C (không biết họ và địa chỉ) gọi điện thoại cho H rủ góp tiền, mua ma túy cùng sử dụng, H trả lời không có tiền và tắt máy. Khoảng 30 phút sau, C gọi lại bảo “có mấy chục cũng được”, H trả lời “có 100.000 đồng”, C bảo “thế là đủ rồi”. Sau đó C điều khiển xe mô tô không biển kiểm soát, nhãn hiệu Yamaha sirius đến đón và chở H đi sang huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái để tìm mua ma túy. Khi đến huyện Văn Chấn C có gọi điện thoại cho một người để hỏi mua ma túy nhưng không được, C bảo H gọi điện thoại để nhờ người mua giúp ma túy thì H nói điện thoại hết tiền. C bảo H đọc số điện thoại để C gọi, H đọc số điện thoại của một người tên K (không rõ họ và địa chỉ). Sau khi C gọi điện thoại cho K, nhờ mua hộ ma túy, K đồng ý. C chở H đến khu vực nhà hoang chờ K. Khoảng 05 phút sau K đến, H đưa cho C số tiền 100.000 đồng để góp mua ma túy, còn C bỏ ra 400.000 đồng, tổng số tiền 500.000 đồng, C cầm và đưa cho K để nhờ mua hộ ma túy. K nhận tiền, khoảng 10 phút sau quay về và đưa cho C 01 gói ma túy và C lấy một ít ra để C, K và H cùng sử dụng. Sau đó H đưa cho C 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng để gói ma túy còn lại. Lúc này C là người cất giấu gói ma túy và điều khiển xe chở H về, khi đi đến Ngã Ba Mường Cơi thì C đưa gói ma túy cho H cầm rồi tiếp tục điều khiển xe về. Khi đi đến khu vực ngã tư thuộc tiểu khu 06, thị trấn Phù Yên thì bị tổ công tác Công an thị trấn Phù Yên kiểm tra hành chính. H xuống xe bỏ chạy thì bị bắt giữ cùng vật chứng còn C điều khiển xe bỏ chạy thoát.

Tại bản cáo trạng số: 48/CT-VKS ngày 08/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố Đinh Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo từ 20 đến 26 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong, gồm: 01 túi nilon màu trắng, chứa chất bột màu trắng là Heroine, ký hiệu H2 = 0,251 gam; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở au khi cân tịnh; 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Sơn La, niêm phong gồm: 01 phong bì gửi mẫu giám định đã bóc mở niêm phong.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.000 đồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra, không có ý kiến gì tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Xét lời khai của bị cáo là tự nguyện và phù hợp với:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 50 phút ngày 03/6/2023 tại tiểu khu 06, thị trấn Phù Yên; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng kèm theo bản ảnh; Kết luận giám định; Lời khai của người chứng kiến sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Ngày 03/6/2023 bị cáo Đinh Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,322 gam chất ma túy; Loại Heroine. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, là người có nhân thân xấu. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/7/2021 bị cáo bị TAND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản, ngày 22/02/2023 đã chấp hành xong án phạt tù (theo Giấy chứng nhận số 373/GCN) chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm, được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì riêng có giá trị, không có công việc và thu nhập ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì của Công an huyện Phù Yên niêm phong, bên trong gồm: 01 túi nilon màu trắng ký hiệu H2 = 0,251 gam; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở; 01 phong bì của phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La, niêm phong gồm: 01 phong bì gửi mẫu giám định đã bóc mở là vật không có giá trị, vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với một tờ tiền VNĐ, mệnh giá 2.000 đồng do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Đối với người đàn ông tên C mà bị cáo khai là người rủ, góp tiền và chở H đi mua ma túy. Khi bị tổ công tác phát hiện, C đã bỏ chạy không bắt được cũng như đối với người đàn ông tên K là người mà H và C nhờ mua ma túy. Ngoài lời khai của bị cáo không có thêm tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại Nokia 1208, vỏ màu trắng của bị cáo sử dụng để trao đổi liên lạc mua ma túy, là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung công, tuy nhiên chiếc ĐTDĐ này bị cáo đã cho người có tên C mượn để gọi và C cầm chưa trả lại cho H. Khi bị phát hiện C đã bỏ chạy cầm theo chiếc điện thoại của H. Do đó cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là thuộc hộ nghèo của xã HT. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị xem xét miễn án phí. Do đó cần miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (03/6/2023).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì của Công an huyện Phù Yên niêm phong gồm: 01 (một) túi nilon màu trắng ký hiệu H2 = 0,251 gam; 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở sau khi cân tịnh; 01 (một) phong bì của phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Sơn La, niêm phong gồm: 01 (một) phong bì gửi mẫu giám định đã bóc mở niêm phong.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 tờ tiền VNĐ có mệnh giá 2.000 đồng (hai nghìn đồng) có mã số hiệu là MH 3185333 do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 64/BB-GNVC ngày 14/8/2023 giữa Công an huyện Phù Yên với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Yên).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Miễn nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đinh Văn H.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 25/8/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;