Bản án 67/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PQ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PQ đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Đức T, (T bóng) sinh năm: 1979, tại: PQ, G; Nơi cư trú: khu phố 2, thị trấn AT, huyện PQ, tỉnh G; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn B và bà Nguyễn Thị N; Vợ: Nguyễn Thị Bé T (đã ly hôn); Con: 01 người, sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 29/3/2020 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 26/3/2020, Huỳnh Đức T sử dụng điện thoại di động của T loại Samsung gọi cho H (chưa rõ nhân thân) hỏi mua 5.000.000 đồng ma túy đá để sử dụng. H đồng ý bán ma túy cho T và hẹn địa điểm giao ma túy tại chợ AT. Đến khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, T đến điểm hẹn gặp H, H bán cho T 19 bịch ma túy đá với giá 5.000.000 đồng. Mua được ma túy, T đem về nhà tại khu phố 2, thị trấn AT, huyện PQ cất giấu trong một hộp giấy được quắn băng keo màu đen bên ngoài để sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/3/2020, T lấy 01 bịch ma túy ra sử dụng, còn lại 18 bịch. Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày lực lượng Công an huyện PQ kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang T cất giấu 18 bịch ma túy đựng trong một hộp giấy được quắn băng keo màu đen. Ngày 05/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện PQ khởi tố, tạm giam đối với Huỳnh Đức T để điều tra.

Vật chứng thu giữ: 18 bịch nylon màu trắng, được hàn kín, có kích thước như sau: 01 bịch 1,1 cm x 2,5 cm; 01 bịch 1,9 cm x 1,9 cm; 01 bịch 1,5 cm x 02 cm; 01 bịch 1,6 cm x 2,3 cm; 01 bịch 1,5 cm x 2,5 cm; 01 bịch 02 cm x 3,7 cm;

02 bịch 01 cm x 2,8 cm; 05 bịch 1,6 cm x 2,5 cm; 05 bịch 1,6 cm x 02 cm; bên trong mỗi bịch nylon đều có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất, (đã được niêm phong);

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, số IMEI 1:

357966100765115/01, IMEI 2: 357967100765113/01, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận giám định số: 271/KL-KTHS ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất được đựng trong 18 (mười tám) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 3, 2111 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 271/KL-KTHS ngày 03/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G.

Bản cáo trạng số 73/CT-VKSPQ ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ đã truy tố bị cáo Huỳnh Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Huỳnh Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Huỳnh Đức T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 3,0912 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu niêm phong.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, số IMEI 1: 357966100765115/01, IMEI 2: 357967100765113/01, đã qua sử dụng.

Đối với người bán ma túy cho T Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng viện kiểm sát truy tố và lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện PQ, tỉnh G, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện PQ, tỉnh G đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ: Vào khoảng 23 giờ 50 Phút ngày 28/3/2020 lực lượng Công an huyện PQ kiểm tra hành chính nhà ở của Huỳnh Đức T thì phát hiện một hộp giấy được quấn băng keo màu đen để trên kệ dùng để hàng tạp hóa bên trong có 18 bịch ny lon màu trắng được hàn kín, bên trong mỗi bịch ny lon có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng không đồng nhất. T khai nhận đó là ma túy T mua về để sử dụng.

Qua kết luận giám định số số: 271/KL-KTHS ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất được đựng trong 18 (mười tám) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 3, 2111 gam.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Như vậy Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở để xác định cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân huyện PQ truy tố bị cáo Huỳnh Đức T về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được tệ nạn ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, làm suy thoái nòi giống, băng hoại đạo đức và ảnh hưởng đến phẩm giá con người.Tuy nhiên, để thõa mãn nhu cầu cá nhân mà bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và cũng tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ ma túy tái hòa nhập cộng đồng.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, số IMEI 1: 357966100765115/01, IMEI 2: 357967100765113/01, đã qua sử dụng, bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ, HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố:bị cáo Huỳnh Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Đức T 02 (hai) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/3/2020.

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 3,0912 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu niêm phong.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu xanh, số IMEI 1: 357966100765115/01, IMEI 2: 357967100765113/01, đã qua sử dụng, bị cáo dùng vào việc phạm tội.

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho chi cục thi hành án Dân sự huyện PQ theo quyết định chuyển giao vật chứng số 42/QĐ-VKSPQ-HS ngày 28/5/2020)

3. Về án phí: căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 67/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;