Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2022/TLST - HS ngày 26 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 68/2022/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T - Tên gọi khác: Trét, sinh năm 1996, tại Lâm Đồng; nơi cư trú: Ấp N L 2, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961; vợ, con, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 11/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Bị tạm giữ từ ngày 23/12/2021 đến ngày 01/01/2022. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện ma túy. Sáng ngày 23/12/2021, T sử dụng điện thoại di động hiệu Masstel màu đen có gắn sim số 0975.299.160 gọi vào số điện thoại 0964.747.916 của một đối tượng tên V hỏi mua 300.000 đồng ma túy. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 60B3-732.15 từ xã P X đến ngã ba cây xoài thuộc xã Phú Lâm để mua ma túy của Vinh. Sau khi nhận được ma túy, trên đường mang về nhà tại ấp N L 2, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, T bị lực lượng Công an xã P X, huyện Tân Phú phát hiện bắt quả tang thu giữ: 01 gói ny-lon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy, được niêm phong ký hiệu: M), 01 xe mô tô biển số 60B3-732.15, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A53 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Masstel màu đen và số tiền 400.000 đồng.

Toàn bộ hồ sơ, tài liệu, mẫu vật thu giữ và đối tượng Nguyễn Thanh T được bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú tiến hành trưng cầu giám định mẫu vật được niêm phong ký hiệu: M. Tại Bản kết luận giám định số: 2501/KLGĐ- PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong, ký hiệu M là ma túy, có khối lượng: 0,1847gam, loại: Methamphetamine. Số lượng ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1572 gam.

Cáo trạng số: 59/CT-VKSTP-ĐN ngày 18/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiêm sat viên trình bày ý kiến luân tôi như sau:

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước; Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật nên giữ nguyên quyết định truy tố; cần phải có mức án phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo: Nguyễn Thanh T mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu phát mãi sung công: 01 điện thoại hiệu Masstel màu đen vì có gắn sim số 0975.299.160 của bị cáo là công cụ thực hiện việc phạm tội;

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định được đựng 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong có dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất cấm lưu hành.

Đối với xe mô tô biển số 60B3-732.15, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A53 màu đen và 400.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã trao trả chủ sở hữu.

Về vấn đề khác: Đối với đối tượng tên V (là người bán ma túy cho bị cáo) hiện chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng trong hồ sơ vụ án:

- Lời trình bày ý kiến, tranh luận của bị cáo: Bị cáo thừa nhận nội dung của Bản cáo trạng là đúng sự thật, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1.] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Cáo trạng số 59/CT-VKSTP-ĐN của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú được ban hành ngày 18/4/2022 nhưng đến ngày 24/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú mới giao cho bị can và đến ngày 26/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú mới chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện Tân Phú là vi phạm thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 240 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2.] Về trách nhiệm hình sự:

[2.1] Xét về hành vi phạm tội: Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện ma túy. Lúc 10 giờ 05 phút, ngày 23/12/2021, tại ấp N L 2, xã P X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thanh T có hành vi cất giấu 0,1847 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì Công an xã P X, huyện Tân Phú đã bắt giữ.

Hành vi mà bị cáo đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2.2] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình để nhận biết được hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chế độ quản lý mặt hàng cấm của Nhà nước mà còn gây tác hại lớn đối với sức khỏe và nhân cách của con người, làm thiệt hại kinh tế của gia đình cũng như xã hội và là một trong những nguyên nhân nảy sinh của các loại tội phạm khác; gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử cần xem xét mà giảm nhẹ một phần cho mức hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Tòa án mở phiên tòa công khai xét xử vụ án để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1572 gam đã được niêm phong số 2501/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất cấm lưu hành nên cần tịch tiêu hủy là đúng pháp luật.

Đối với 01 điện thoại hiệu Masstel màu đen là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu phát mãi sung công quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015.

Đối với 60B3-732.15, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A53 màu đen và số tiền 400.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội đã trao trả cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

[4] Đối với các vấn đề khác: Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo tên V hiện chưa điều tra làm rõ được họ tên, địa chỉ. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[5] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 33, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án hình phạt tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/12/2021 đến ngày 01/01/2022.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

Tịch thu phát mãi sung vào công quỹ nhà nước 01 điện thoại hiệu Masstel màu đen là công cụ dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1572 gam đã được niêm phong số 2501/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/5/2022 giữa Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

Số hiệu:66/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;