Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 04 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN L (Tên gọi khác N); Sinh năm: 1995 tại Bình Thuận.

Nơi cư trú: thôn XT, xã N, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Ông Nguyễn Văn L1, sinh năm: 1975 (đã chết); Mẹ: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974; Anh chị em ruột: có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1995 (chưa đăng ký kết hôn); Con: có 02 người con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 23/01/2021, kể từ ngày 24//01/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 15/01/2021, Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) –Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an xã N, thành phố P đã kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn L đang có hành vi sử dụng, tàng trữ trái phép chất nghi là ma túy tại nhà của bà Nguyễn Thị Thức (mẹ ruột của L) tại thôn XT, xã N, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Lực lượng Công an lập biên bản và thu giữ tang vật bao gồm:

- Thu giữ trên bàn nơi L và Vương Khắc V (sinh năm 1975, trú thôn Đại Thiện 1, xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận Bắc) đang ngồi:

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu COTAB, bên trong có 01 (một) gói nylong không màu (kích thước 04x4,5)cm, bên trong có:

+ 02 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (01 x 03)cm, bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể màu trắng.

+ 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng (01 x 3,5)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

(tất cả được niêm phong trong phong bì đánh số 01, ký hiệu M khi giám định).

-01 điện thoại di động màu đỏ-đen, mặt trước và sau vỏ điện thoại có chữ NOKIA, điện thoại gắn 02 sim: 0941811247, 0853753453, IMEI 1: 359599059175461, IMEI 2: 359599059175479.

-01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm: 01 vỏ chai thủy tinh, màu nâu, trên miệng chai có gắn một đoạn ống hút giải khát màu trắng, 01 đoạn ống thủy tinh được uốn cong một đầu.

- Tiền Việt Nam: 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng), thu giữ trong túi quần bên trái của L đang mặc.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Thuận đã ra lệnh khám xét số 03/CSMT ngày 15/01/2021 khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn L tuy nhiên không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Ngày 21/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bình Thuận đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn L khai nhận: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 14/01/2021 Nguyễn Văn L đang uống cà phê tại một quán cà phê trên đường Quốc lộ 1A đoạn đường thuộc TP. P, tỉnh Bình Thuận thì gặp một người tên N (không rõ nhân thân). Do trước đó đã từng mua ma túy của N nên L nói N bán cho L 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) ma túy đá thì N đồng ý. Lúc này L đưa N 400.000 đồng thì N cầm tiền và đưa lại cho L 01 (một) gói nylon không màu hở một đầu, bên trong gói nylon này có chứa 03 (ba) gói ma túy đá. Sau khi mua được ma túy đá của N, L mang về nhà bỏ vào vỏ bao thuốc lá hiệu COTAB cất giữ để sử dụng dần.

Đến khoảng 11 giờ 00 phút ngày 15/01/2021 khi L đang ở nhà (nhà mẹ ruột của L là bà Nguyễn Thị Thức, sinh năm 1974) tại thôn XT, xã N, thành phố P, tỉnh Bình Thuận tại thôn XT, xã N, TP. P, tỉnh Bình Thuận thì có Vương Khắc V đến chơi. Lúc này, L mang bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và gói ma túy mua của N ra để trên bàn trong nhà bếp, đồng thời rủ V cùng sử dụng ma túy thì V đồng ý. Khi L đang ngồi sử dụng ma túy với Vương Khắc V thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như trên.

Tại bản kết luận giám định số 70/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự- Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

-Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,5533 gam, là Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: Các gói nylon đã được cắt lấy mẫu và 0,4764 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 70, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Số ma túy còn lại sau giám định và bộ dụng cụ sử dụng ma túy, số tiền 150.000đồng thu giữ của Nguyễn Văn L, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã có Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P để bảo quản chờ xử lý.

Đối với 01 điện thoại di động thu giữ của L. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã xử lý vật chứng trả lại cho L.

Đối với Vương Khắc V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 26/01/2021, Đội trưởng Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính xử phạt Vương Khắc V số tiền 750.000đồng.

Cáo trạng số 44/CT-VKSPT-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, không khiếu nại hay thắc mắc gì về nội dung bản cáo trạng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 70, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu COTAB– là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ và vật không có giá trị sử dụng.

Đối với số tiền 150.000đồng thu giữ của Nguyễn Văn L là tiền của cá nhân Nguyễn Văn L không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên trả lại cho bị cáo tuy nhiên tiếp tục tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không tranh luận gì. Lời nói sau cùng bị cáo trình bày bị cáo đã biết hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn L tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu điều tra về khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của bị cáo và các chứng cứ khác thu thập theo quy định của pháp luật có trong hồ sơ. Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15/01/2021, Nguyễn Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,5533 gam Methamphetamine tại nhà thuộc thôn XT, xã N, thành phố P nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Nguyễn Văn L là cố ý, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, hơn nữa còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L là rất nguy hiểm, bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, sự phát triển giống nòi của dân tộc và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội, bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine là loại ma túy gây nghiện, Nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ… trái phép nhưng bị cáo bất chấp hậu quả pháp lý. Do vậy, Cáo trạng số số 44/CT-VKSPT-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề xuất của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy là hợp lý vì quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thể hiện sự thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, để đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử lý bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo lao động trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động màu đỏ-đen, mặt trước và sau vỏ điện thoại có chữ NOKIA, điện thoại gắn 02 sim: 0941811247, 0853753453, IMEI 1: 359599059175461, IMEI 2: 359599059175479 thu giữ của Nguyễn Văn L không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố P đã xử lý vật chứng trả lại cho L là phù hợp.

Đối với 01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 70, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu COTAB; đây là vật chứng của vụ án nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 150.000đồng thu giữ của Nguyễn Văn L là tài sản cá nhân của Nguyễn Văn L không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho L theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, tiếp tục tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

[6] Đối với Vương Khắc V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố P ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với V là đúng quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho L do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 23/01/2021.

2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy:

01 phong bì màu trắng đã được niêm phong đánh số 70, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu COTAB.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 76 ngày 02/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P).

Tiếp tục tạm giữ số tiền: 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn L để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số tiền đã chuyển vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 09/4/2021).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 66/2021/HS-ST

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;