Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 09/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2023/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Thanh L (tên gọi khác: Trúc), sinh ngày 16 tháng 02 năm 1993, tại Gia Lai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 08, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Thanh H, sinh năm 1971 và bà Đỗ Thị S, sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không. Về nhân thân: Ngày 15-9-2010, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Pleiku quyết định đưa vào trường Giáo dưỡng số 3 tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, về hành vi “Trộm cắp tài sản” (theo Quyết định số 1464/QĐ-UB ngày 15/9/2010). Ngày 20-7-2012 đã chấp hành xong.

Bị cáo Hồ Thanh L bị tạm giữ từ ngày 16-12-2022, đến ngày 25-12-2022 bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người chứng kiến ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ 10, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a) Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồ Thanh L sử dụng chất ma túy loại Methamphetamine từ khoảng thời gian tháng 10 năm 2021. Thông qua mối quan hệ xã hội, L quen biết đối tượng T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 16/12/2022, khi L đang ngồi uống nước tại quán nước vỉa hè (không rõ địa chỉ) trên đường Nguyễn Viết Xuân, phường P, thành phố P, thì L gặp T1. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lâm hỏi mua ma túy của T1 với giá 900.000 đồng thì T1 đồng ý; L đưa tiền cho T1 rồi T1 nói L đến cổng công viên Diên Hồng, phường I, thành phố P gặp một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) để lấy ma túy. Sau đó, L đi bộ đến chỗ hẹn thì thấy người phụ nữ đã chờ sẵn và chỉ tay về phía dưới chân trụ điện ngay cổng công viên Diên Hồng, L đi đến vị trí trụ điện thấy có 03 gói nilon bên trong chứa ma túy nên L nhặt lên và cất giấu 01 gói vào túi áo và 02 gói vào túi quần mặc trên người, với mục đích để sử dụng, rồi đi bộ về nhà.

Đến 20 giờ 00 ngày 16-12-2022, khi L đang đi bộ trên đường hẻm 125 đường Hoàng Sa, tổ 10, phường I, thành phố P, thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an tỉnh Gia Lai phối hợp với Công an phường Ia Kring phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng, gồm: 03 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ-đen kèm sim số (mặt sau sim có dãy số 8984 04800 03876 99963) đã qua sử dụng. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã chuyển Hồ Thanh L cùng toàn bộ hồ sơ vụ án, vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

b) Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại bản Kết luận giám định số 17/KL-KTHS, ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:“Chất màu trắng dạng tinh thể trong 03 (ba) gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,4427 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận giám định số 17/KL-KTHS, ngày 26-12-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung kèm sim số đã qua sử dụng là của cá nhân bị cáo L, không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku chuyển theo vụ án chiếc điện thoại kèm sim số này cùng chất ma túy còn lại sau giám định trong bì công văn niêm phong ghi “Số 17/PC09 ngày 26 tháng 12 năm 2022” có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, để xử lý.

Đối với đối tượng tên T1 là người mà bị cáo L khai đã bán ma túy cho L: Do L không biết được nhân thân, lai lịch của T1, Cơ quan điều tra cũng đã xác minh tại khu vực phường Hội Phú nhưng không xác định được đối tượng tên T1 có liên quan đến hoạt động ma túy, nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với người phụ nữ mà L khai đã giao ma túy cho L, do L không biết họ tên, nhân thân và lai lịch của người phụ nữ này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không có căn cứ để xác minh, làm rõ đối tượng này.

c) Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 77/CT-VKS, ngày 11-4-2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Hồ Thanh L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi của bị cáo Hồ Thanh L; đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Thanh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Hồ Thanh L mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16-12-2022.

Do bị cáo Lâm tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng, không có thu lợi bất chính, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung;

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn ghi số 17/PC09 ngày 26-12-2022 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di dộng hiệu Samsung màu đỏ-đen, kèm sim số. Đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Hồ Thanh L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Hồ Thanh L không có ý kiến tranh luận về lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku.

Bị cáo Hồ Thanh L nói lời nói sau cùng: Thưa Hội đồng xét xử bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm đoàn tụ với gia đình, chăm sóc cha mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Thanh L là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Lúc 20 giờ 00 phút ngày 16-12-2022, tại hẻm 125 đường Hoàng Sa, tổ 10 phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai, khi bị cáo Hồ Thanh L đang cất giấu 0,4427 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Gia Lai phối hợp với Công an phường Ia Kring phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng.

[3] Hành vi mua, cất giữ 0,4427 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, do bị cáo Hồ Thanh L thực hiện như nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Nhà nước nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II được ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ. Việc sản xuất, vận chuyển, tàng trữ các chất ma túy này phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku truy tố bị cáo là có căn cứ.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, như đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Bị cáo Hồ Thanh L là người đã trưởng thành, hoàn toàn nhận thức được việc tàng trữ ma túy để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội; bản thân bị cáo là người có sử dụng ma túy, biết được tác hại của ma túy là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân đã bất chấp pháp luật cố ý mua, cất giữ 0,4427 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Bản thân bị cáo là người đã bị đưa vào trường giáo dưỡng vào năm 2010 với hành vi trộm cắp tài sản, và đã chấp hàng xong năm 2012. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới giáo dục cải tạo bị cáo, nhằm răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” nên bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội không liên quan đến nghề nghiệp. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Đối với đối tượng tên T1 là người mà bị cáo L khai đã bán ma túy cho L: Do L không biết được nhân thân, lai lịch của T1, Cơ quan điều tra cũng đã xác minh tại khu vực phường Hội Phú nhưng không xác định được đối tượng tên T1 có liên quan đến hoạt động ma túy, nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là phù hợp. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với người phụ nữ mà bị cáo L khai đã giao ma túy cho L, do L không biết họ tên, nhân thân và lai lịch của người phụ nữ này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không có căn cứ để xác minh, làm rõ đối tượng này. Do đó Hội đồng xét xử không đề cập.

[10] Về vật chứng: Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong 01 bì công văn ghi số 17/PC09 ngày 26-12-2022, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy.

[11] Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ - đen, kèm sim số là tài sản cá nhân của L, qua điều tra cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nên đề nghị của Viện kiểm sát trả lại cho bị cáo là có căn cứ cần chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hồ Thanh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Hồ Thanh L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 16 tháng 12 năm 2022).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì công văn ghi số 17/PC09 ngày 26-12-2022 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai;

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đỏ - đen, kèm sim số. (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong).

(Tất cả vật chứng nêu trên có số lượng, đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 04 năm 2023 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hồ Thanh L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;