TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong các ngày 14, 15 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:
Lê L; Sinh năm 1990 tại Gia Lai, nơi cư trú: Thôn 3, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn C ( chết) và bà Phạm Thị Thanh H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 04/01/2021 đến ngày 13/01/2021 chuyển sang tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Trần V, Sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn 2, xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
- Bà S, Sinh năm 1986, thông B, xã Ia Băng, huyện D, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
Người chứng kiến:
- Ông Hoàng Văn T, Sinh năm 1965; địa chỉ: Thôn 2, xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê L đã tưng sử dụng ma túy. Ngày 03/01/2021, L mượn điện thoại của Phương (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gọi cho S hỏi mua ma túy để sử dụng. S hẹn L đến khu vực gần trụ sở Viettel trên đường Nguyễn T, phường Hoa Lư, thành phố P để giao dịch. Sau đó, L đến nhà Trần V mượn xe mô tô biển số 81B2-057.84 đi đến điểm hẹn gặp S lấy một gói ma túy trị giá 300.000 đồng, cất vào hộc trước trên xe mô tô rồi đi về. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/01/2021, L xuất phát từ nhà mang xe mô tô biển số 81B2-057.84 đến nhà trả cho S. Khi đến địa phận Thôn 2, xã C, thành phố P thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an xã C phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 (một) gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong hộc xe mô tô biển số 81B2-057.84 do L điều khiển mang đi trả cho anh S và thu giữ của L 01 xe mô tô biển số 81B2- 057.84 (nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, số máy 3S31056288, số khung RLCS3S3106Y056288); 01 điện thoại Sam Sung màu trắng bị vỡ màn hình; số tiền 300.000 đồng.
Tại Kết luận giám định số 67/KLGĐ ngày 13/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận chất bột màu trắng thu giữ trong xe mô tô do L điều khiển “là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2957 gam”.
Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, một chiếc điện thoại di động hiệu Sam Sung bị vỡ màn hình kèm sim số và số tiền 300.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chuyển theo vụ án để xử lý.
Chiếc xe mô tô biển số 81B2-057.84 (nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, số máy 3S31056288, số khung RLCS3S3106Y056288), qua điều tra xác định: Chiếc xe này do Phong (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gửi tại nhà của Trần V, sau đó S cho L mượn xe nhưng không biết L sử dụng để đi mua ma túy. Người đứng tên đăng ký xe là bà S, đã bán vào năm 2019 cho một người không rõ nhân thân, lai lịch ,không làm hợp đồng mua bán. Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả nên đã tiến hành nhập kho vật chứng để tiếp tục xác minh, xử lý.
Tại Bản Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 19/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Lê L ra trước Tòa để xét xử về tội “ Tàng trữ tái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Qốc L, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Lê L mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, tính từ ngày bị tạm giữ 04/01/2021.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì dán kín ghi số 67/PC09 ngày 13/01/2021, bên ngoài có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia lai.
Hoàn trả lại cho bị cáo L chiếc điện thoại Sam Sung và 300.000đ đã thu giữ, được mô tả trong biên bản bàn giao vật chứng số 71/2021 ngày 26/4/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.
Đối với chiếc xe mô tô đã chuyển nhập kho vật chứng để truy tìm chủ sở hữu sẽ xử lý sau, không xem xét trong vụ án này.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo khai có ông bà nội là người tham gia cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, nhưng chưa cung cấp cho Hội đồng xét xử, đồng thời không có ý kiến hay khiếu nại gì về nội dung bản Bản cáo trạng và mức hình phạt cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị.
Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật hình sự, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình.
Bị cáo hứa cố gắng cải tạo tốt để sớm được trở về chăm sóc mẹ đang đau ốm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa,bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì. Do đó các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước Tòa. Hành vi thực hiện phạm tội của bị cáo Lê L như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/01/2021, L mang xe mô tô đến nhà trả cho anh S. Khi đến địa phận thôn 2, xã C, thành phố P thì bị cơ quan chức năng kiểm tra, phát hiện trong hộc xe mô tô do L điều khiển một gói ni lon chứa chất bột màu trắng.
Tại bản kết luận giám định số 67/KLGĐ ngày 13/01/2021 của Phòng Khoa học hình sự Công an tỉnh Gia Lai, xác định chất bột màu trắng trong túi ni lon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2957gam. Bị cáo Lê L thừa nhận đã mua của đối tượng tên S, cất giấu trong xe để sử dụng.
Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận Lê L đã phạm vào tội “Tàng trữ chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có nhận thức tốt, nên biết được điều đó, nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoàn 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc là thỏa đáng.
[4] Về vật chứng vụ án: Vật chứng trog vụ án gồm một khối lượng Ma túy còn lại sau giám định được đựn trong bì Công văn ghi số 67/PC09 ngày 13/01/2021 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, là loại cấm lưu hành, nên Căn cứ 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại hiệu Sam Sung và số tiền 300.000 đồng là tài sản không liên quan trong vụ án này nên trả lại cho bị cáo L.
Đối với chiếc xe mô tô biển số 81B2-057.84 (nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, số máy 3S31056288, số khung RLCS3S3106Y056288), Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe nhưng chưa có kết quả nên đã tiến hành nhập kho vật chứng để tiếp tục xác minh, xử lý sau là có căn cứ, không xem xét trong vụ án này.
[5] Về án phí: Bị cáo Lê L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê L phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử:
Phạt bị cáo Lê L 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 04/01/2021.
Về vật chứng:
Căn cứ 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì Công văn dán kín ghi số 67/PC09 ngày 13/01/2021, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, trả lại cho bị cáo L 01 ( Một) chiếc điện thoại hiệu SamSung kèm sim số, số tiền 300.000 đồng Tình trạng tài sản và vật chứng như trong biên bản bàn giao ngày 26/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Lê L phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngay nhận được bản án tống đạt hợp l
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 61/2021/HSST
Số hiệu: | 61/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về