TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 60/2022/HSST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N; Tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 04/01/1970, tại tỉnh B;
Nơi cư trú: Số nhà 165, tổ 10, phường N, thành phố Đ, tỉnh B.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ văn hóa: 07/10 phổ thông; Con ông: Nguyễn Văn Đ (Đã chết); Con bà: Đinh Thị N (Đã chết); Vợ: Trịnh Thị H; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 16/12/2021, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị L; Địa chỉ: Số nhà 25, tổ 04, thị trấn M, huyện M, tỉnh B (Có mặt).
Chị Trịnh Thị H; Địa chỉ: Số nhà 165, tổ 10, phường N, thành phố Đ, tỉnh B (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 16/12/2021, tổ công tác Công an phường N, thành phố Đ, tỉnh B đang làm nhiệm vụ phát hiện bị cáo Nguyễn Văn N đang điều khiển xe mô tô BKS 27H1-5081 đi đến đầu cầu C4, hướng ra chợ C4, thuộc tổ dân cư C4, phường N, thành phố Đ, tỉnh B, có biểu hiện phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe, kiểm tra thì thấy bị cáo thả 01 gói nhỏ, được gói ngoài bằng mảnh giấy ô li màu trắng từ lòng bàn tay trái xuống đường, cách bánh trước xe khoảng 20 cm. Tổ công tác yêu cầu bị cáo nhặt lên, mời người chứng kiến, mở gói giấy bên trong có các cục chất bột màu trắng, bị cáo khai đó là ma túy, loại Heroine. Nguồn gốc số ma túy nói trên là bị cáo vừa mua của một người đàn ông không quen biết ở đường thuộc tổ dân cư C4, phường N với giá 100.000 đồng, mục đích để sử dụng, trên đường về thì bị cơ quan công an phát hiện, bắt giữ.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 16/12/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 49/GĐ-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng đục thu giữ của Nguyễn Văn N gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,13 gam.
Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS-TPĐBP ngày 26/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy oli màu trắng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 16/12/2021, tại khu vực tổ dân cư C4, phường N, thành phố Đ, Nguyễn Văn N có hành vi cất giấu trái phép 0,13 gam Heroine trên người, mục đích để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 15 phút ngày 16/12/2021, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 16/12/2021, kết luận giám định số 49/GĐ-PC09 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.
Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52/BLHS.
Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
[2]. Từ những phân tích trên khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
Bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, với khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ là 0,13 gam Heroine thì mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là thợ xây, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông ở đường, thuộc tổ dân cư C4, nhưng không biết họ tên, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA wave, màu sơn đỏ, đen, biển kiểm soát:
27H1- 5081, kèm chìa khóa xe, 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị L; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định: Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Thị L; Địa chỉ: Tổ 04, thị trấn M, huyện M, tỉnh B. Khi chị L để xe ở nhà bị cáo và giao cho chị Trịnh Thị H; Địa chỉ: Tổ 10, phường N, thành phố Đ, tỉnh B (Là vợ bị cáo) quản lý hộ, khi chị L và chị H không có nhà, bị cáo tự ý lấy xe đi mua ma túy, chị L và chị H không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả chiếc xe trên cùng với đăng ký xe, chìa khóa xe cho chị L. Xét việc trao trả này là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6]. Vật chứng: 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh giấy ô li màu trắng, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (Một) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (16/12/2021).
2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,1 gam Heroine (Vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh giấy ô li màu trắng (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 23/02/2022)
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2022/HSST
Số hiệu: | 60/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về