Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 57/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 7 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Lường Văn N, sinh năm 1998 tại tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản S, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn P và bà Lò Thị P; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; danh bản, chỉ bản số 168 của Công an huyện Đan Phượng lập ngày 19/4/2021; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2021 đến nay; có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Tú A và bà Nguyễn Thị Kim D - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hà Nội; bà Nguyễn Thị Kim D có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Viết T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Cụm 10, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/4/2021, Lường Văn N (ở Bản S, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên) do cần ma túy để sử dụng nên đã từ nơi ở tại xã T đi bộ ra khu vực cổng làng thôn H, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội mua của một thanh niên khoảng 30 tuổi (không biết tên tuổi, địa chỉ) hai gói ma túy, với giá 400.000 đồng. Sau đó, N đang đi tìm nơi sử dụng thì bị Công an xã T bắt quả tang, thu giữ hai gói ma túy trong túi quần N đang mặc trên người.

Tại bản Kết luận giám định số 3007/KLGĐ-PC09 ngày 13/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy màu trắng đều là ma túy loại Heroine, khối lượng là 0,162 gam.

Bản Cáo trạng số 58/CT-VKS- ĐP ngày 30 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội truy tố Lường Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Bị cáo cũng trình bày bản thân đã nhận thức hành vi của mình là sai pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do hiểu biết pháp luật còn hạn chế; bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình bị cáo là hộ nghèo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lường Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã niêm phong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đan Phượng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lường Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng lời khai người làm chứng, vật chứng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/4/2021 tại khu vực cổng làng thôn H, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, bị cáo Lường Văn N đang cất giữ 02 gói ma túy loại Heroine, khối lượng là 0,162 gam trong túi quần N đang mặc trên người, mục đích để sử dụng cho nhu cầu bản thân và đã bị Công an xã T bắt quả tang, thu giữ số ma túy trên.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lường Văn N đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ma túy là chất gây nghiện có tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và là một trong những nguyên nhân gây ra tội phạm hình sự và các tệ nạn xã hội. Bị cáo có đủ nhận thức về tác hại của ma túy, biết việc Nhà nước nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, mua bán... trái phép các chất ma túy. Do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến việc bị cáo phạm tội. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Hội đồng xét xử cũng xem xét: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo qui định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án và tiền sự. Đây là các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bị cáo là lao động tự do, là cá nhân thuộc hộ nghèo và không có tài sản, thu nhập để đảm bảo cho việc thi hành án, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Đối với người nam giới khoảng 30 tuổi mà bị cáo Lường Văn N khai đã bán cho bị cáo 02 gói ma túy ở khu vực cổng làng thôn H, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được nhân thân người đó nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 02 gói ma túy, sau khi giám định đã được niêm phong trong 01 bao gói, do không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo là cá nhân thuộc hộ nghèo ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lường Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 06/4/2021.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói sau giám định đã được Phòng PC09 Công an Thành phố Hà Nội niêm phong (Vật chứng lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2021 với Công an huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lường Văn N được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Lường Văn N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2021/HS-ST

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;