Bản án 59/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 59/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 945/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng Q; sinh ngày: 25/3/1993 tại tỉnh Tuyên Quang; hộ khẩu thường trú: 2 P, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở hiện tại: nhà không số, tổ B, ấp E, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Nguyễn Văn T, mẹ: Nông Thị H; có vợ và 01 con sinh năm: 2021; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân: ngày 23/6/2017, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 139/2017/HSST); bị bắt, tạm giam ngày: 31/3/2023; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Phương H1, sinh năm: 1999; hộ khẩu thường trú: xóm A (xóm C cũ), xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; nơi ở hiện nay: Số D, ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hồng Q: Ông Đặng Quốc H2 - Luật sư của Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: Lầu A, số B L, Phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 31/3/2023, Công an xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra nhà không số, tổ B, ấp E, xã Đ, huyện H, tại thời điểm kiểm tra, có mặt bị cáo Nguyễn Hồng Q, khi thấy Công an vào bị cáo liền ném một số đồ vật ra ngoài cửa sổ. Qua kiểm tra các đồ vật bị cáo vừa ném ghi nhận như sau:

* Thu tại vị trí ngoài cửa sổ ở trên lưới B40 có:

- 01 gói nylon, bên trong có 02 gói nylon nhỏ có tổng khối lượng 15,567 gam, loại Methamphetamine.

- 01 gói nylon, bên trong có 05 gói nylon nhỏ có tổng khối lượng 46,4429 gam, loại Methamphetamine.

* Thu tại vị trí nền đất sau nhà có: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 02 cây kéo bằng kim loại; 02 ống hút nhựa.

* Thu tại vị trí sàn của phòng ngủ của bị cáo 01 hộp giấy bên trong có:

- 01 gói nylon, bên trong có 04 gói nylon nhỏ có tổng khối lượng là 3,0481 gam, loại Methamphetamine.

- 01 gói nylon có khối lượng là 2,3411gam, loại Methamphetamine.

- 01 hộp quẹt gas và một số gói nylon không chứa gì.

* Thu tại vị trí kệ gỗ trên tường có: 01 hộp nhựa - kim loại có mã khóa, bên trong hộp có 02 gói nylon không chứa gì và 01 đoạn ống nhựa có cắt nhọn một đầu.

Ngoài ra còn tạm giữ của bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI biển số 59Y1- xxxxx.

Toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Hồng Q đã được trưng cầu giám định. Kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 3104/KL-KTHS ngày 07/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh: chất tinh thể không màu là ma túy loại Methamphetamine, với tổng khối lượng là 67,3991 gam.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Hồng Q khai nhận, thông qua bạn bè ngoài xã hội giới thiệu người tên L (không rõ lai lịch) bán ma túy đá. Vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 26/3/2023, bị cáo gọi cho điện thoại di động cho L hỏi mua 5.000.000 đồng ma túy đá, L đồng ý và bị cáo hẹn gặp nhau ở khu vực nhà thờ T4 trên đường T, quận G. Đến nơi L đưa ma túy cho bị cáo ma túy không rõ số lượng. Đến 11 giờ 00 cùng ngày, bị cáo gọi L mua thêm 2.000.000 đồng ma túy đá, L nói bán loại ma túy kém chất lượng để bị cáo mang về trộn chung số ma túy trước bán kiếm lời cao. L hẹn bị cáo đến chỗ cũ lấy ma túy. Về đến nhà, bị cáo trộn chung số ma túy đá vào với nhau, rồi phân chia ra nhiều gói nylon nhỏ để bán lại cho các đối tượng sử dụng, nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát biện bắt quả tang. Công an test ma túy đối với bị cáo Nguyễn Hồng Q, kết quả bị cáo dương tính với chất ma túy.

Bản Cáo trạng số 589/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 09 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 16 (mười sáu) năm đến 17 (mười bảy) năm tù. Đồng thời, đề nghị xử lý tài sản, vật chứng thu giữ theo quy định.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hồng Q - Luật sư Đặng Quốc H2 - trình bày: thống nhất về tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, nêu bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”; đề nghị xem xét hoàn cảnh, nguyên nhân phạm tội của bị cáo, vợ bỏ đi, cha mẹ già yếu, nuôi con còn nhỏ, bị cáo đã được xóa án tích coi như phạm tội lần đầu, xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án mà Kiểm sát viên đề nghị, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và bị cáo sớm trở về với gia đình.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu, xác định tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Hồng Q tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định: vào ngày 31/3/2023, tại nhà không số, tổ B, ấp E, xã Đ, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Hồng Q đã có hành vi cất giấu, tàng trữ 67,3991 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để bán lại cho người khác thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi cất giấu, tàng trữ 67,3991 gam ma túy loại Methamphetamine tại nơi ở của mình, rồi phân chia ma túy ra nhiều gói nylon nhỏ, nhằm bán lại cho các đối tượng khác mà bị cáo thực hiện, đã đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đựợc sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định.

[4] Hành vi nói trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, ảnh hưởng trật tự công cộng tại địa phương, là một trong những nguyên nhân làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội và là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa cho toàn xã hội.

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở để xác minh, xử lý.

[6] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo nêu là có căn cứ. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”. Các tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án:

- 03 (ba) gói được niêm phong bên ngoài ghi số 3107 (717/23); 3107 (717/23) và 3107 (717/23) có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C (PC09); điều tra viên Vũ Đình H3 (PC04), bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định: đây là ma túy, tang vật của vụ án, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) hộp quẹt ga và một số gói nylon không chứa gì: đây là các vật dụng được sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) hộp nhựa - kim loại có 02 gói nylon không chứa gì và 01 đoạn ống hút nhựa cắt nhọn một đầu: đây là các vật dụng được sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01(một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 02 (hai) cây kéo kim loại; 02 (hai) ống hút nhựa: đây là các vật dụng được sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI biển số: 59Y1- 85940:

+ Kết quả giám định số khung, số máy nguyên thủy, không thay đổi. Qua xác minh theo số khung số máy, xe có biển số thật là 37E1-xxxxx, chủ sở hữu là anh Nguyễn Phương H1, chiếc xe này anh H1 bị mất trộm ở khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương vào cuối năm 2020, nhưng anh không trình báo cơ quan công an. Anh H1 đã mua trả góp chiếc xe này, hiện tại đã thanh toán xong và đề nghị được nhận lại xe.

+ Bị cáo khai mua chiếc xe máy trên mạng xã hội (chợ tốt) vào tháng 08/2022, giá mua 18.000.000 đồng sử dụng cho đến nay. Khi mua xe không có giấy tờ mua bán, không có giấy đăng ký xe.

Do vậy, trả lại chiếc xe cho anh Nguyễn Phương H1, còn biển số 59Y1- 85940 gắn trên xe thì tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/3/2023.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 3107 (717/23) được niêm phong sau giám định có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C, Điều tra viên Vũ Đình H3; bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định (gói 1).

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 3107 (717/23) được niêm phong sau giám định có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C, Điều tra viên Vũ Đình H3; bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định (gói 2).

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 3107 (717/23) được niêm phong sau giám định có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh C, Điều tra viên Vũ Đình H3; bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định (gói 3).

+ 01 hộp quẹt ga và một số gói nylon không chứa gì; 01 hộp nhựa - kim loại có 02 gói nylon không chứa gì; 01 đoạn ống hút nhựa cắt nhọn một đầu.

+ 01bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 cây kéo kim loại, 02 ống hút nhựa.

+ 01 biển số: 59Y1-xxxxx.

- Trả lại cho anh Nguyễn Phương H1: 01 xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu SUZUKI; số loại: RAIDER; dung tích xi lanh: 147.3; SK: RLSDL11ANJV111225, SM: CGA1511408.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2024/062 ngày 22/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;