TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10/01/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2022/TLST- HS ngày 23/12/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2022/QĐXXST- HS ngày 29/12/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn D, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1970, tại Thái Bình.
Nơi cư trú: Thôn T S, xã N L, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 và bà:Lưu Thị T (Đã chết); có vợ: Bùi Thị G, sinh năm 1971 (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995; Tiền án: 01 tiền án (Ngày 21/9/2020 bị TAND huyện ĐB xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 12/9/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/9/1999 bị TAND tỉnh Lai Châu xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích. Ngày 27/4/2010 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng, ngày 28/12/2012 chấp hành xong. Ngày 17/9/2013 bị TAND huyện ĐB xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích. Ngày 01/02/2018 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng, ngày 01/02/2020 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 19/11/2022 đến nay "Có mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/11/2022, bị cáo đi bộ từ nhà đến bản Xôm, xã Thanh An, huyện ĐB với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói Heroine với giá tiền là 50.000đ của một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 50 tuổi không biết tên và địa chỉ. Sau đó bị cáo cho gói Heroine vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 11 giờ 15 phút cùng ngày, khi bị cáo đang đi bộ tại khu vực đường thuộc bản Xôm, xã Thanh An thì bị tổ công tác Công an huyện ĐB kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói Heroine do bị cáo đang cất giữ tại túi áo bên trái.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 19/11/2022 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,14 gam;
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản kết luận giám định số: 1498/KL-KTHS ngày 26/11/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn D gửi giám định là Heroine;
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKSĐB ngày 21/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS; Điều 38/BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 29/11/2022 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo đang trên đường về thì bị bắt quả tang 01 gói Heroine có khối lượng 0,14 gam.
Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.
[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS.
Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.
[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện ĐB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 50 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.
[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
[8]. Vật chứng: 0,14 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,1 gam) cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS; Điều 38/Bộ luật hình sự.
1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 19 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 19/11/2022.
3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,14 gam Heroine, gửi giám định toàn bộ (hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,1 gam).
(Vật chứng đã được công an huyện ĐB chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB ngày 23/12/2022).
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 59/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 59/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/01/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về