TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 58/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2024/TLST- HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Đào Văn Đ, sinh năm: 1973. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Lương N, xã Tiên D, huyện Đ, thành phố H; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đào Quang Đ (đã chết); và bà Trần Thị T; Vợ: Trần Thị Bích H; Có 02 con: lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2004; Tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân:
- Ngày 18/9/1993, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Hội xử phạt 40 tháng tù về tội Cướp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự 1985 (Đã được xóa án tích);
- Ngày 28/9/1996, Tòa án nhân dân huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật Hình sự 1985 (Đã được xóa án tích);
- Ngày 07/7/1999, Công an tỉnh Hà Giang ra Lệnh tạm giữ số 59 đối với Đào Văn Đ về hành vi Trộm cắp tài sản công dân theo Điều 155 Bộ luật Hình sự 1985. Ngày 17/9/1999, Viện KSND tỉnh Hà Giang ra Quyết định trả tự do cho Đ;
- Ngày 11/9/2000, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 (Đã được xóa án tích);
- Ngày 09/12/2013, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999 (Đã được xóa án tích);
- Ngày 23/6/2020, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (Đã được xóa án tích);
- Ngày 18/01/2024, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Bị Bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 ngày 19/12/2023, Đào Văn Đ điều khiển xe môtô hiệu Honda Dream, không có BKS từ nhà đi đến khu vực thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, Đ gặp một nam giới không rõ tên và địa chỉ cụ thể đang đứng ở rìa đường. Đ hỏi mua 02 gói giấy nhỏ màu trắng, bên trong có chứa chất ma túy loại heroin hết 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ cất vào túi quần bên trái đang mặc trên người rồi điều khiển xe môtô đi về nhà. Khi về đến địa phận phố Nỷ, xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, Hà Nội thì bị tổ công tác Y13/141 Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an huyện Sóc Sơn đang trên đường làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính phát hiện, tạm giữ người và tang vật. Tại đây, Đ tự giác giao nộp 02 (hai) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, Đ khai là ma túy loại "Heroin" mua về để sử dụng.
Vật chứng thu giữ: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream không đeo BKS.
Tại Bản kết luận giám định số 8484/KL-KTHS ngày 26/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy tạm giữ của Đào Văn Đ là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,920 gam. Quá trình giám định, Cơ quan giám định đã lấy 0,050 gam Heroin làm mẫu giám định, phần còn lại gồm 0,87 gam Heroin cùng toàn bộ bao gói hoàn trả Cơ quan điều tra.
Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Dream, không đeo BKS, quá trình điều tra, Đ khai mượn của một người bạn tại Thái, nhà ở khu vực Cổ Dương, huyện Đông Anh, Hà Nội. Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ nhà của Thái; khi mượn xe môtô, Đ không nói cho Thái biết việc sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh trên địa bàn xã Cổ Dương, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội kết quả: Trên địa bàn xã Cổ Dương, huyện Đông Anh, Hà Nội không có người nào tên Thái như Đ đã khai.
Tại Kết luận giám định số 1004/KL - KTHS ngày 29/01/2024 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định số khung, số máy của chiếc xe máy trên như sau:
- Bề mặt vị trí đóng số khung có dấu vết tẩy xóa. Xác định được số khung nguyên thủy là: ND039 - 31?..? (ký tự "?..?" không xác định được).
- Bề mặt vị trí đóng số máy có dấu vết tẩy xóa. Xác định được số máy nguyên thủy là: NDE - 10345?..? (ký tự "?...?" không xác định được).
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đào Văn Đ tại khu vực thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại Cơ quan điều tra, Đào Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên.
Tại Bản cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 11/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Đào Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng đã nêu, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt Đào Văn Đ mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 20 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2024/HSST ngày 18/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án từ 38 đến 44 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/12/2023.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa ma túy loại Heroine thu giữ của Đào Văn Đ. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Dream, không đeo BKS thu giữ của bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.
[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; Biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/12/2023, tại khu vực Phố Nỷ, xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Đào Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,920 gam ma túy loại "Heroin" với mục đích để sử dụng thì bị Tổ tuần tra Công an huyện Sóc Sơn phát hiện, bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma” túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thị bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroin…..có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố Đào Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất của vụ án: Vụ án có tình chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy; xâm hại trật tự, an toàn xã hội; ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển nòi giống con người. Tệ nạn ma túy không những làm suy kiệt đến kinh tế của mỗi gia đình mà còn là nguyên nhân gây ra các tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của cá nhân.
[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về nhân thân: Bị cáo đã bị đưa ra xét xử 05 lần, mặc dù đều đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 20/2024/HSST ngày 18/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt bị cáo 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi phạm tội lần này của bị cáo được thực hiện trong khi chưa có bản án hình sự sơ thẩm số 20/2024/HSST nên không phải là hành vi tái phạm nhưng cũng thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Do bản án hình sự sơ thẩm số 20/2024/HSST ngày 18/01/2024 đã có hiệu lực pháp luật nên cần phải tổng hợp hình phạt theo quy định khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có nghiệp nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy loại Heroin có chữ ký của bị cáo và Giám định viên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Drem, không đeo BKS, số khung, số máy đã bị tẩy xóa. Bị cáo khai mượn của đối tượng tên là Thái, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng không xác định được người có tên là Thái như bị cáo khai, xét đây là công cụ phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, ngoài việc không xác định được chủ sở hữu thì hiện số khung, số máy đã bị tẩy xóa không đủ điều kiện để lưu thông nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình phạt:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Đào Văn Đ 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt 20 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2024/HSST ngày 18/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/12/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01phong bì niêm phong ma túy loại Heroin có chữ ký của Đào Văn Đ và Giám định viên; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, không đeo biển kiểm soát, không xác định được số khung, số máy do bị tẩy xóa thu giữ của bị cáo (tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/3/2024 giữa Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu án phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 58/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 58/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về