Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 259/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

A, sinh năm 1998 tại tỉnh Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: Ấp E, xã F, huyện G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông B và bà C; hoàn cảnh gia đình chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Củ Chi để xét xử A về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 05/8/2021, A gọi điện thoại cho một người tên Bảo (không rõ lai lịch) để nhờ Bảo mua gúp 800.000 đồng chất ma túy đá thì Bảo đồng ý. Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, Bảo điện thoại cho A kêu đến ngã ba đường Trần Văn Chẩm giao với Tỉnh lộ 8 thuộc ấp 4, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh để chờ người đến giao chất ma túy. A điều khiển xe gắn máy biển số 93K1-X đi từ nhà tại ấp E, xã F, huyện G đến điểm hẹn trên. Đến nơi, A gặp một người thanh niên tên Ken (không rõ lai lịch), A đưa cho Ken 800.000 đồng và nhận 02 gói chất ma túy từ Ken, A cất giấu 02 gói chất ma túy vào túi áo khoác bên trái đang mặc và điều khiển xe đi về. Vào khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, khi A về đến chốt kiểm soát phòng chống dịch Covid 19 trên đường Tỉnh lộ 2, đoạn thuộc ấp 3, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi thì bị Tổ công tác trực chốt thuộc lực lượng Công an xã Phước Vĩnh An kiểm tra phát hiện bắt quả tang A tàng trữ trái phép 02 gói nylon chứa chất ma túy.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của A tại ấp E, xã F, huyện G, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ: 01 ống thủy tinh có 01 đầu tròn.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy đối với A: dương tính.

Tại Kết luận giám định số 4476/KLGĐ-MT ngày 12/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, chữ ký ghi tên A và hình dấu Công an xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,5868g, loại Methamphetamine (BL20).

Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Củ Chi để xét xử A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội như sau: Qua xét hỏi tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có tại hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo A đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo A từ 01 năm 06 tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong mang số vụ 4476/2021 có chữ ký niêm phong của Điều tra viên và Cán bộ Giám định; 01 ống thủy tinh có 01 đầu tròn.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số Imei 868929047141966:868929048141965 là phương tiện bị cáo dùng liên lạc mua ma túy; 01 xe gắn máy biển số 93K1-X, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen, số khung RLCUE3710KY026292, số máy: E32VE063941 là phương tiện bị cáo dùng đi mua ma túy.

Bị cáo A không tranh luận, không tự bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử khoan hồng xử mức án nhẹ để bị cáo sớm về đoàn tụ gia đình, làm người công dân có ích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có tại hồ sơ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi tàng trữ ma túy nhằm để sử dụng thì bị Công an xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 05/8/2021, qua giám định là ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 0,5868g, loại Methamphetamine. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2] Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã bất chấp. Hội đồng xét xử nghĩ cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi và nhân thân của bị cáo để có mức hình phạt tương xứng.

Về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để khoan hồng giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng …”. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, bị cáo phạm tội lần đầu, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong mang số vụ 4476/2021 có chữ ký niêm phong của Điều tra viên và Cán bộ Giám định và 01 ống thủy tinh có 01 đầu tròn, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số Imei 868929047141966:868929048141965 là phương tiện bị cáo dùng liên lạc mua ma túy và 01 xe gắn máy biển số 93K1-X, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen, số khung RLCUE3710KY026292, số máy: E32VE063941, là xe do bị cáo mua và đứng tên đăng ký chủ sở hữu, bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[5] Đối với Bảo và Ken bán trái phép chất ma túy cho A, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau. Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi không xét, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

[6] Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “…Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định của Tòa án…”, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên như nêu trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/8/2021.

2. Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong mang số vụ 4476/2021 có chữ ký niêm phong của Điều tra viên và Cán bộ Giám định; 01 ống thủy tinh có 01 đầu tròn.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số Imei 868929047141966:868929048141965 và 01 xe gắn máy biển số 93K1-X, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu đen, số khung RLCUE3710KY026292, số máy: E32VE063941.

Các vật chứng nêu trên được liệt kê tại phiếu nhập kho vật chứng số 195/PNK ngày 28/10/2021 và số 214/PNK ngày 14/12/2021 của Công an huyện Củ Chi (BL29,30).

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự nm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo A phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;