Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 567/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 567/2020/HSST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08/12/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Thái Nguyên, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 557/ 2020/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 573/2020/ QĐ XXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Hàn Văn T, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1963, tại tỉnh Thái Nguyên; (không có tên gọi khác); Đăng ký hộ khẩu và ở: Tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn : Lớp 09/12; Nghề nghiệp: Hưu trí; Chức vụ (Đảng, Đoàn thể, Chính quyền) trước khi phạm tội: Không;

Con ông Hàn Trọng Đ và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1920 (đều đã chết);Vợ là Đặng Thị Đ, sinh năm 1964; Có 02 con (lớn sinh năm 1989; nhỏ sinh năm 1991); Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 06;

Tiền án:Tại Bản án số 291/2017/HSST ngày 11/8/2017 của TAND thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong án phạt tù ngày 30/01/2019;

Tiền sự: Không;

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang chấp hành biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt);

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1988;

Đăng ký hộ khẩu và ở: Xóm Đ, xã T, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên;

+Người chứng kiến:

- Ông Đoàn Hương H, sinh năm 1965;

- Anh Lê Văn C, sinh năm 1971; 

Cùng đăng ký hộ khẩu và ở: Tổ 5, phường P, tp. Thái Nguyên(đều vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 21/7/2020, Tổ công tác của Công an phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 5 của phường Phú Xá thì phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô BKS 20 B1-648.28 có biểu hiện ngh i vân liên quan đên ma tuy nên đã yêu cầu kiểm tra, đối tượng tăng ga bỏ chạy được khoảng 5 m thì xe mô tô đâm vào tường rào và bị đổ đè lên chân phải của đối tượng.Tổ công tác đã nhanh chóng áp sát và thực hiện thủ tục kiểm tra, đối tượng khai là Hàn Văn T,Tổ công tác đã thu giữ tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc 01 túi ni lon màu trắng- bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng,T khai đó là chất ma tuy (Đá) và ma túy (Hồng Phiến).Tổ công tác đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng (bì ký hiệu T1). Đồng thời, lập biên bản tạm giữ chiếc xe mô tô do T điều khiển theo quy định.

Cùng ngày ,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành mở niêm phong để cân và xác định: Viên nén màu hồng có khối lượng là 0,098 gam; Số tinh thể màu trắng có khối lượng là 0,182 gam. Toàn bộ vật chứng này được niêm phong gửi giám định (viên nén màu hồng -bì ký hiệu A; chất tinh thể màu trằng- bì ký hiệu B);

Tại bản Kết luận giám định số 4846/C09-TT2 ngày 30/7/2020 của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu trong bì ký hiệu A, B gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine;

Tại bản kết luận giám định số 1081/KL-KTHS ngày 20/8/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ ban đầu của T như đã xác định nêu trên;

Tại Cơ quan điều tra T khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 14 giờ 00 phút 21/7/2020 T điều khiển xe mô tô nói trên đi từ nhà sang phường Phú Xá với mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, T đã gặp và mua số ma túy trên của 01 nam thanh niên không quen biết, không rõ địa chỉ với giá 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Sau khi mua được số ma túy trên T cất giấu tại túi quần phía trước bên phải T đang mặc, trên đường đi tìm nơi sử dụng, đi được khoảng 20 m thì bị Tổ công tác của Công an phường Phú Xá phát hiện và yêu cầu kiểm tra. Do hoảng sợ T đã tăng ga bỏ chạy nhưng do không làm chủ được tốc độ nên xe mô tô đâm vào tường rào và bị đổ, đè lên chân phải của T dẫn đến bị thương tích (sau đó Bệnh viện xác dịnh T bị gây xương chân phải).

Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang,thu giữ vật chứng và tài sản có liên quan như nêu trên.

Vật chứng của vụ án là 0,280 gam chất ma túy, loại Methamphetamine ( sau khi giám định, bì ký hiệu A còn lại 0,62 gam mẫu; bì ký hiệu B còn lại 0,136 gam mẫu). Hiện đang bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý (Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 65 ngày 30/10/2020 do Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên lập) Tại Bản cáo trạng số 556/CT-VKSTP ngày 03/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thành phố Thái Nguyên đã truy tố Hàn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS);

Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Kết thúc phần xét hỏi, vị đại diện VKSND thành phố Thái Nguyên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích các tài liệu chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra và diễn biến tại phiên tòa đã giữ nguyên Quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Xác định bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS (“Tái phạm ”);

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù;

Căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận và hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản Cáo trạng đã truy tố, nhất trí với Bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; VKSND thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng; Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên, các tài liệu có trong hồ vụ án đủ cơ sở cho việc giải quyết vụ án, do đó HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

2.1.Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo hoàn toàn thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã mua số ma túy trên để sử dụng cho bản thân như Bản Cáo trạng của VKSND thành phố Thái Nguyên đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác. Chứng minh đầy đủ, toàn diện các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do đó HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14 giờ 20 phút ngày 21/7/2020, tại khu vực tổ 5, phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên, Hàn Văn T đang có hành vi tàng trữ 0, 280 gam chất ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác của Công an phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Hành vi của bị cáo đã thực hiện nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất gây nghiện, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tính chất, mức độ của vụ án là nghiêm trọng, bản thân bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ con người, kinh tế- xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, do đó hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý ", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. VKSNS thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Nội dung quy định này như sau:

Điều 249.“ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

2.2.Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo bị xét xử theo các quy định nêu trên là đúng pháp luật.

2.3. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Xét thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về hành vi cùng tính chất lần phạm tội này, phải cải tạo trong môi trường nghiêm ngặt, chưa được xóa án tích, lẽ ra bị cáo cần coi đó là bài học để nghiêm khắc sửa chữa lỗi lầm. Song trái lại, để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân bị cáo vẫn tiếp tục tái phạm, do đó bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 của Điều 52 của BLHS, vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo gây ra, nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và để đảm bảo tính giáo dục răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cũng xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, khi lượng hình cần được xem xét. Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng đối với bị cáo như nêu trên là có căn cứ.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định "Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...".Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án của bị cáo, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo.

[3]Về vật chứng: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 47 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án như đã nêu trên.

[4] Các vấn đề khác:- Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của đối tượng bán ma túy cho bị cáo, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên xác định không có cơ sở xử lý đối tượng này là có căn cứ;

- Kết quả điều tra thể hiện chiếc xe mô tô BKS 20 B1-648.28 nhãn hiệu WaveAlpha; màu đen (số khung: RLHHC 1217 DY 524 517; Số máy HC 12E 5524573) bị cáo đã sử dụng tại thời điểm phạm tội thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Mạnh H (cháu họ của bị cáo) cho bị cáo mượn. Anh H không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội, do đó Cơ quan điều tra trả lại cho anh H tài sản này là có căn cứ.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước;

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331;332 và 333 của BLTTHS;

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các quy định:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 ; Khoản 1 Điều 47 của BLHS;

- Điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331;332 và 333 của BLTTHS;

- Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13, ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên bố:

1.Về tội danh: Bị cáo Hàn Văn T phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” ;

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hàn Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù; Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án;

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

3.Về vật chứng: Tiêu hủy 02 bì niêm phong ký hiệu A và B (tình trạng vật chứng trên như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 65 ngày 30/10/2020 do Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án thành phố Thái Nguyên lập);

4.Về tài sản bị tạm giữ: Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Mạnh H 01 chiếc mô tô BKS 20 B1-648.28 nhãn hiệu WaveAlpha; màu đen (số khung: RLHHC 1217 DY 524 517; Số máy HC 12E 5524573);

5.Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời ạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 567/2020/HSST

Số hiệu:567/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;