Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 56/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Lại Thanh B, sinh ngày 05/02/1973 tại T; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lại Thanh X (ông X được Nhà nước tặng bằng khen vì đã góp công góp sức trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc) và bà Mai Thị M (đã chết); Có vợ là Lê Thị Bá N và có 01 con sinh năm 1995.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Quyết định số 1697/QĐ-UBND ngày 25/10/2010 của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh T về việc đưa vào Trung tâm cai nghiện bắt buộc 05-06 tỉnh T, trong thời hạn 12 tháng do nghiện ma túy, chấp hành xong ngày 02/5/2012.

Quyết định 1931/QĐ-CT ngày 20/6/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh T về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội thành phố T, trong thời hạn 12 tháng do nghiện ma túy, chấp hành xong ngày 08/6/2014.

Bị tạm giữ từ ngày 14/01/2022 đến ngày 17/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người chứng kiến:

+ Anh Nguyễn Tiến V1, sinh năm 1973. (Vắng mặt) Trú tại: Số nhà 06/05, tổ 4, phường P, thành phố T, tỉnh T.

+ Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985. (Vắng mặt) Trú tại: Số nhà 10, tổ 5, phường B1, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 14/01/2022, Lại Thanh B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, biển số 17B1-133.35 từ nhà đến khu vực ngõ 2, đường H1, tổ 4, phường Q, thành phố T, mục đích mua Hêrôin để sử dụng cho bản thân. Đến nơi B gặp và mua của một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 túi ma túy với giá 200.000 đồng. B nhận ma túy cất vào túi quần bên phải của mình rồi điều khiển xe đi tìm chỗ sử dụng. Đến 21 giờ cùng ngày, khi B đi đến khu vực đường L, tổ 3, phường T1, thành phố T thì bị tổ công tác 141 Công an tỉnh Thái Bình phối hợp với Công an thành phố Thái Bình yêu cầu dừng lại kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H và anh Nguyễn Tiến V1, B tự giác lấy từ túi quần bên phải đang mặc 01 túi nilon trong suốt, có mép cài viền màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục giao nộp cho tổ công tác và khai nhận là Hêrôin B vừa mua để sử dụng cho bản thân, kiểm tra người B thu tại túi quần bên trái của B 01 điện thoại OPPO màu đen, thu tại túi quần hậu bên phải của B 01 ví giả da màu nâu bên trong có 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Lại Thanh B và số tiền 2.030.000 đồng, kiểm tra xe mô tô không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản kiểm tra phương tiện, điện thoại theo quy định.

Bản kết luận giám định số 26/KLGĐMT - PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục, trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng thu giữ của Lại Thanh B, sinh năm 1973, ĐKHKTT tại thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh T, ngày 14/01/2022” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1562 gam (không phẩy một nghìn năm trăm sáu mươi hai gam).

Bản Cáo trạng số 54/CT-VKSTPTB ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Lại Thanh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lại Thanh B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lại Thanh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Lại Thanh B mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì bên ngoài ghi số 26/KLGĐMT-PC09. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, 01 ví giả da màu nâu, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Lại Thanh B, nhưng quản lý điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Lại Thanh B nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lại Thanh B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 00 phút ngày 14/01/2022, tại khu vực đường L, tổ 3, phường T1, thành phố T, tỉnh T, Lại Thanh B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1562 gam ma túy, loại Hêrôin, mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

Hành vi của Lại Thanh B là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, là nguyên nhân phá hoại hạnh phúc của bao gia đình và còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, đã từng phải đi cai nghiện bắt buộc, bị cáo có nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[3] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố đối với bị cáo Lại Thanh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng bằng khen vì đã góp công góp sức trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc, anh trai bị cáo là liệt sỹ, do đó bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có công việc ổn định, không có tài sản, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy thu giữ của bị cáo Lại Thanh B còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với tài sản quản lý của bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, 01 ví giả da màu nâu, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Lại Thanh B không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen trắng, biển số 17B1-133.35, qua tra cứu xác định đăng ký xe mang tên chị Lê Thị Bá N, sinh năm 1975, trú tại thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh T là vợ bị cáo, chị Ninh không biết B sử dụng xe đi mua ma túy, số tiền 2.030.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng, để chi tiêu sinh hoạt gia đình. Ngày 15/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã trả lại chiếc xe và số tiền trên cho chị Lê Thị Bá N.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Lại Thanh B khai mua ma túy của một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực ngõ 2, đường H1, tổ 04, phường Q, thành phố T, tỉnh T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự, Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lại Thanh B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lại Thanh B 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 14/01/2022).

3.Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của Lại Thanh B hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì, bên ngoài ghi số 26/KLGĐMT- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, 01 ví giả da màu nâu, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mang tên Lại Thanh B.

(Vật chứng, tài sản trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/4/2022).

4. Về án phí: Bị cáo Lại Thanh B phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 09/5/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;