Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh D, sinh năm 1960 tại Gia Lai; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tích B (chết) và bà: Trần Thị Đ (chết); vợ, con: không có; tiền án:

- Bản án số 217/HSST ngày 27 và ngày 28/4/1989, Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt tử hình về tội “Cướp tài sản của công dân”, 08 năm tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân”, 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp hình phạt chung là tử hình. Bị cáo D kháng cáo. Bản án số 696/HSPT ngày 24/8/1989, Tòa án Nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm, sửa một phần án sơ thẩm, xử phạt tù chung thân về tội “Cướp tài sản của công dân”, 08 năm tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân”, 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp hình phạt chung là tù chung thân;

- Trong thời gian chấp hành hình phạt tù, bị cáo thực hiện hành vi “Trốn khỏi nơi giam”, bản án số 119/HS ngày 25/12/1993 Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 02 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”, tổng hợp hình phạt chung là tù chung thân. Xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh không truy xuất được thông tin về việc thi hành án của bị cáo trên hệ thống, chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Gia Trung vào ngày 28/02/2002 do được giảm án xuống 20 năm và 01 năm 03 tháng tù;

- Bản án số 235/HSST ngày 21/12/2004, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Bị cáo kháng cáo. Bản án số 67/2005/HSPT ngày 09/3/2005, Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm sửa bán án sơ thẩm, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình chưa thụ lý hồ sơ theo bản án số 67/2005/HSPT ngày 09/12/2005 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh, chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Xuân Lộc vào ngày 27/7/2006;

- Bản án số 05/2009/HSST ngày 14/01/2009, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Thủ Đức vào ngày 27/01/2012;

- Bản án số 96/2013/HSST ngày 18/6/2013, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bản án số 49/2014/HSST ngày 25/02/2014, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp bản án số 96/2013/HSST ngày 18/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh thì hình phạt chung cả hai bản án là 09 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù tại trại giam Thủ Đức vào ngày 17/01/2020. tiền sự: không; bắt phạm tội quả tang ngày 17/9/2020. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh D là đối tượng vừa chấp hành xong hình phạt tù, thuê trọ tại phòng số 3, lầu 2, nhà địa chỉ số 13 đường X, Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh từ tháng 3 năm 2020.

Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 17/9/2020, Công an Phường 2, quận Tân Bình phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Tân Bình kiểm tra hành chính tại nhà trọ địa chỉ số số 13 đường X, Phường A, quận B, Nguyễn Minh D khai báo có cất giấu trái phép chất ma túy trong 01 hộp giấy đặt trên nền nhà cạnh tấm nệm trong phòng, cơ quan Công an lập biên bản bắt quả tang, thu giữ tại nền nhà cạnh tấm nệm có 01 hộp giấy bên trong chứa 01 phong bao lì xì màu vàng chứa 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 bao da màu đen chứa 01 cân tiểu li và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 quẹt gas màu vàng, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút, 01 bình gas màu đen hiệu BLUESKY.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của D tại phòng số 3, lầu 2, nhà trọ địa chỉ số số 13 đường X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, kết quả thu giữ 01 cân điện tử màu xám.

Kết luận giám định số 1624/KLGĐ-H ngày 22/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon chứa trong 01 phong bao lì xì màu vàng là chất ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine có khối lượng 2,484 gam; tinh thể không màu trong 01 gói nylon còn lại là chất ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine có khối lượng 0,2024 gam, tổng khối lượng là 2,6864 gam chất ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh D khai nhận toàn bộ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng như nêu trên. Vào ngày 16/9/2020, bạn của D tên D1 (không xác định lai lịch) đến nhà chơi, cho D 02 gói nylon là ma túy để sử dụng. Khi D1 về, D lấy một ít ma túy sử dụng rồi cất giấu 01 gói vào trong phong bao lì xì màu vàng, gói nylon còn lại để vào trong bao da màu đen rồi cất giấu tất cả vào trong hộp giấy đặt cạnh tấm nệm trong phòng trọ và bị bắt quả tang.

Đối với đối tượng tên D1 đưa ma túy cho D sử dụng, D không biết lai lịch của D1. Người quản lý nhà trọ là ông Nguyễn Trọng N khai D1 đến ở chung với D từ tháng 6/2020 nhưng ông N không biết lai lịch của D1. Thời điểm cơ quan Công an bắt quả tang, D1 không có mặt tại phòng trọ. Xác minh tại Công an Phường 2, quận Tân Bình không có người tên D1 đăng ký tạm trú tại phòng trọ của D. Do đó, không có cơ sở xác minh, điều tra và xử lý hành vi của D1.

Đối với ông Nguyễn Trọng N là người quản lý nhà trọ số số 13 đường X, Phường A, quận B, ông N không biết D cất giấu và sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng trọ nên không có cơ sở xác định hành vi “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” và hành vi “Không tố giác tội phạm” của ông Nghĩa.

Vật chứng thu giữ: đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 188/PNK ngày 07/12/2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình (bút lục số 142) gồm - 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, ghi số 1624, là tang vật ma túy còn lại sau khi giám định, nhập kho vật chứng;

- 01 bao da màu đen, D sử dụng để cất giấu ma túy, nhập kho vật chứng;

- 01 quẹt gas màu vàng, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút, 01 bình gas màu đen hiệu BLUESKY, là dụng cụ sử dụng ma túy của D, nhập kho vật chứng;

- 01 cân tiểu li, do D nhặt ngoài đường, không liên quan vụ án, nhập kho vật chứng;

- 01 cân điện tử màu xám, là tài sản của D1 để lại tại phòng D, không liên quan vụ án, nhập kho vật chứng;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, là tài sản cá nhân của D, không liên quan vụ án, nhập kho vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKS-TB ngày 23 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Minh D, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Minh D đã có hành vi cất giấu 2,6864 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngoài ra bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, ghi số 1624 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 bao da màu đen bên trong có 01 cân tiểu li, 01 quẹt gas màu vàng, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút, 01 bình gas màu đen hiệu BLUESKY, 01 cân điện tử màu xám, Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Do bị cáo trên 60 tuổi nên được miễn nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

 Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Minh D 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/9/2020.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Xuân Sang, ghi số 1624 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 bao da màu đen bên trong có 01 cân tiểu li, 01 quẹt gas màu vàng, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút, 01 bình gas màu đen hiệu BLUESKY, 01 cân điện tử màu xám.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu trắng và 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen.

(Tình trạng theo phiếu nhập kho vật chứng số 188/PNK ngày 07/12/2020 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2021/HS-ST

Số hiệu:56/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;