TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 55/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm - Trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và điểm cầu thành phần - Trại tạm giam Công an thành phố H; Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền tiến hành xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2024/QĐXXST-HS, ngày 27 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:
Nguyễn Đình L, sinh ngày 28 tháng 4 năm 1964, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Số D đường T, phường c, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T và bà Mai Thị T1 (đều đã chết); có vợ nhưng đã ly hôn, có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án: Tại Bản án số 12/2008/HSST ngày 25/01/2008, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong hình phạt vào năm 2010, chưa thi hành phần trách nhiệm bồi thường dân sự); tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 120 ngày 14/9/1983, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử 15 tháng tù cho hưởng án treo, 30 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án số 93 ngày 16/7/1984, Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân và 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số 120 ngày 14/9/1983 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử, tổng hợp hình phạt là 30 tháng tù, bị cáo thi hành xong án phí (đã gạch sổ thi hành xong nhưng kho lưu trữ không có hồ sơ thi hành án); tại Bản án số 227/STHS ngày 19/7/1988, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (không tìm thấy các tài liệu liên quan đến việc thi hành án phí); tại Bản án số 65 ngày 08/4/1994, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Bản án số 1101 ngày 17/8/1994, Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án số 31/HSST ngày 12/03/2004, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (thi hành xong án phí vào ngày 03/6/2004); bị tạm giữ ngày 09/9/2023, đến ngày 12/9/2023 chuyển tạm giam; có mặt.
- Người tiến hành tố tụng tại điểm cầu thành phần: Ông Vũ Trọng K - Thu ký Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Do nghiện ma túy nên Nguyễn Đình L nảy sinh ý định mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 09/9/2023, L đi bộ một mình từ nhà ở số D T, cầu Đ, Ngô Q, Hải Phòng, Ngô Q, Hải Phòng đến khu vực đường tàu Trần Nguyên H, L, Hải Phòng để tìm mua ma túy. Đến nơi, L đi vào trong, gặp và mua của 01 người phụ nữ không quen biết 01 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong, L cất giấu trong người rồi về nhà, lấy một nửa ma túy cho vào xi lanh hòa với nước cất, rồi tiêm chích vào cơ thể. Số ma túy còn lại T cho vào gói giấy để trên mặt bàn ở phòng ngủ tầng 3. Đến khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi bị Công an phường C kiểm tra hộ khẩu, L đã giao nộp 01 gói giấy kích thước khoảng 01x01 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng (là ma túy L sử dụng còn lại) và 01 điện thoại Samsung màu bạc đã qua sử dụng, bị nứt vỡ (không có sim). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N đã tiến hành bắt người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với L.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đình L không thu được đồ vật tài liệu gì liên quan đến hành vi phạm tội.
Bản kết luận giám định số 723/KL-KTHS ngày 11/9/2023 của Phòng KI Công an thành phố H kết luận: “Chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,16 gam, loại Heroine”.
Kết quả xét nghiệm nước tiểu của Nguyễn Đình L cho kết quả dương tính với test thử chất ma túy Morphine Heroine và M.
Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 723MT/PC09 bên trong gồm 0,07 gam chất bột cùng toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định và 01 điện thoại Samsung màu bạc đã qua sử dụng, bị nứt vỡ (không có sim), chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền quản lý.
Tại Bản Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Đình L khai nhận toàn bộ nội dung vụ án như cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình L và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đình L với mức án từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không đề nghị hình phạt bổ sung do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 723MT/PC09 bên trong gồm 0,07 gam chất bột cùng toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Samsung màu bạc đã qua sử dụng, bị nứt vỡ (không có sim).
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Sau khi đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, bị cáo thành khẩn khai nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở lại xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
- Về tội danh [2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Đình L tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 09/9/2023, tại số D T, cầu Đ, N, Hải Phòng, Công an phường C bắt giữ Nguyễn Đình L, thu giữ 01 gói ma túy Heroine, L khai để sử dụng cho bản thân. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Loại ma túy thu giữ của bị cáo theo Bản kết luận giám định số 723/KL-KTHS ngày 11/9/2023 của Phòng K1 Công an thành phố H là loại Heroin có khối lượng 0,16gam. Vì vậy, bị cáo bị xét xử theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng đã truy tố là đúng.
- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ:
[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo L có một tiền án tại Bản án số 12/2008/HSST ngày 25/01/2008, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng "Tái phạm" theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Đối với 02 tiền án tại Bản án số 93 ngày 16/7/1984 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng và Bản án số 227/STHS ngày 19/7/1988 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, tài liệu trong hồ sơ không thể hiện việc cơ quan thi hành án có lưu giữ nên các tiền án này bị cáo đương nhiên được xóa án tích.
- Về hình phạt:
[7] Hành vi phạm tội của của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về cất giữ các chất ma túy, làm suy giảm sức khỏe con người và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội mới đảm bảo tính răn đe của pháp luật.
[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người không có việc làm và thu nhập ổn định, không xác định được bị cáo có tài sản riêng nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự
[9] Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 723MT/PC09 bên trong gồm 0,07 gam chất bột cùng toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định. Đây là lượng ma túy mà bị cáo đã tàng trữ trái phép, là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Samsung màu bạc đã qua sử dụng, bị nứt vỡ (không có sim) do quá trình điều tra và tại phiên toà xác định, bị cáo không sử dụng điện thoại vào việc phạm tội.
[11] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho L hiện chưa xác định được lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
[12] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[13] Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đình L 30 (ba mươi) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/9/2023.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 723MT/PC09 bên trong gồm 0,07 gam chất bột cùng toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Samsung màu bạc đã qua sử dụng, bị nứt vỡ (không có sim) t heo Quyết định chuyển vật chứng số 44/QĐ-VKSNQ ngày 01/02/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/02/2024 giữa Công an quận N và Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.
Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Đình L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đình L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2024/HS-ST
Số hiệu: | 55/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về