Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 55/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2020/TLST- HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 đối với: Bị cáo Trần Duy S sinh ngày 08/7/1986; tại: huyện HH, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn TL, xã ĐH, huyện HH, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn T sinh năm 1958 và bà: Nguyễn Thị N sinh năm 1956; vợ: Nguyễn Thị NH sinh năm 1994; con: Có 02, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016 Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Nhập ngũ tháng 02/2005, xuất ngũ tháng 7/2011; Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2014/HSST ngày 30/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 01(Một) năm, về tội “Đánh bạc”.

Bị tạm giữ từ ngày 03/4/2020, đến ngày 07/4/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Bình.

Người làm chứng: Anh Lưu Xuân H sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn ĐQ, xã QN, huyện P, tỉnh Thái Bình Người chứng kiến:

- Ông Vũ Quang H sinh năm 1970 - Ông Phạm Văn T sinh năm 1971 Cùng địa chỉ: Tổ A, thị trấn AB, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo; vắng mặt anh H, ông H và ông T).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/4/2020, tại Km59 + 100 đường Quốc lộ 10 thuộc địa phận tổ B, thị trấn AB, huyện P, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện P phối hợp với Trạm Cảnh sát giao thông CN phát hiện Lưu Xuân H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14H2 – xxxx chở Trần Duy S có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu cả hai về Trạm Cảnh sát giao thông CN tại thị trấn AB để làm việc, kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên phải phía trước S đang mặc 01 gói ni lon trong suốt chứa chất bột màu trắng dạng cục. S khai nhận đó là Hêrôin S mua để sử dụng cho bản thân; kiểm tra, thu giữ tại lòng tất chân bên trái H đang đi 01 gói nilon trong suốt chứa các hạt tinh thể trong suốt dạng cục. H khai đó là ma túy H mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, quản lý xe mô tô trên để điều tra làm rõ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Duy S không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận giám định 117/KLGĐ-PC09 ngày 04/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

Mẫu vật gửi đến giám định là ma túy, loại Heroin (Hêrôin), có khối lượng 1,5647 gam (Một phẩy năm nghìn sáu trăm bốn mươi bảy gam).

rôin STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận: Bị cáo và Lưu Xuân H có mối quan hệ quen biết do cùng làm thợ S ở Quảng Ninh. Sáng ngày 03/4/2020, khi S đang ở nhà thì H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14H2 – xxxx đến chơi. Sau đó, S nhờ H chở đến xã QH, huyện P để gặp khách hàng đang có nhu cầu cần S sửa nhưng mục đích chính là để đi tìm mua ma túy cho bản thân. Khi đến khu vực thôn LB, xã QH, huyện P S bảo H dừng xe đứng đợi rồi S đi bộ vào đường làng mua của một người không quen biết 01 gói Hêrôin với giá 600.000 đồng. H có nhìn thấy nhưng không rõ đặc điểm và nội dung trao đổi giữa S và người bán ma túy cho S. Mua xong, S giấu vào túi quần bên phải phía trước đang mặc và ra đi nhờ xe của H, S chở H về nhà để lấy quần áo rồi cùng đi Quảng Ninh, khi đi đến Trạm Cảnh sát giao thông CN thì bị phát hiện, bắt giữ.

Người làm chứng anh Lưu Xuân H khai: Sáng ngày 03/4/2020 anh có chở Trần Duy S lên Quỳnh Hồng để lấy đồ, khi đi đến thôn LB, xã QH thì S bảo anh đứng ở ngoài đợi để S vào gặp một người đàn ông anh không quen biết, anh không biết giữa S và người đàn ông này làm gì, khoảng 5 phút sau S quay ra và anh chở S về HH lấy đồ rồi tiếp tục chở S đi Quảng Ninh làm, khi đi đến Trạm cảnh sát giao thông CN thì cả hai bị phát hiện bắt giữ. Anh không biết S cất giấu ma túy trong người. S cũng không biết việc anh cất giấu ma túy trong người.

Bản Cáo trạng số 61/CT-VKSQP ngày 04/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình truy tố Trần Duy S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Duy S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh tuyên bố bị cáo Trần Duy S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s và v khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/4/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu để tiêu hủy toàn bộ vật chứng là hêroin thu được của bị cáo trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì; bị cáo nói lời sau cùng: nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất ân hận về hành vi mà mình đã thực hiện và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện P lập ngày 03/4/2020, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/4/2020, tại khu vực tổ 2, thị trấn An Bài, huyện P, tỉnh Thái Bình, Trần Duy S đã có hành vi cất giấu tại túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 gói ma túy, loại hêrôin, có khối lượng 1,5647 gam (Một phẩy năm nghìn sáu trăm bốn mươi bảy gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

“Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b)Nhựa thuốc phiên, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c)Heroin cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, làm phát sinh đại dịch HIV/AIDS và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để chấp hành hình phạt là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo có thời gian tham gia quân đội nhân dân Việt Nam và được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s và điểm v của khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân bị cáo thấy: Năm 2014 bị cáo bị đã bị xét xử về tội “Đánh bạc”. Bị cáo đã được giáo dục cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

[7] Từ những căn cứ và nhận định nêu trên nên về hình phạt áp dụng đối với bị cáo như mức Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, lại nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[10] Hành vi tàng trữ trái phép của bị cáo Trần Duy S và Lưu Xuân H độc lập với nhau, cả hai đều không biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của nhau, do đó Cơ quan điều tra không xử lý đối với H về hành vi đồng phạm với bị cáo mà tách ra xử lý H bằng một vụ án khác là có căn cứ.

[11] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục, kết quả giám định kết luận là ma túy loại hêrôin và hoàn trả mẫu vật sau giám định, đây là loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy số ma túy đã thu giữ còn lại sau giám định là phù hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14H2 – xxxx Cơ quan điều tra đã thu giữ, quản lý của Lưu Xuân H do H đang bị khởi tố ở vụ án độc lập khác nên Cơ quan Điều tra đã xử lý cùng với vụ án của Lưu Xuân H là phù hợp.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Duy S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s và v khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Trần Duy S 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/4/2020.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 1,5245 gam (Một phẩy năm nghìn hai trăm bốn mươi lăm gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Trần Duy S trong phong bì hoàn trả mẫu vật sau giám định ghi số 117/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Duy S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2020/HS-ST

Số hiệu:55/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;