TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 54/2021/HS-ST NGÀY 05/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST-HS ngày 21/10/2021 đối với bị cáo:
VÕ HOÀI P
- Sinh năm 19xx, tại tỉnh Tiền Giang.
- Nơi cư trú: ấp Ch, xã K, huyện Đ, tỉnh G; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn H và bà Nguyễn Thị S; vợ: Nguyễn Thị K; có 01 con: sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/7/2021; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Hồ Hoàng Q, sinh năm 19xx (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố X, thị trấn V, huyện G, tỉnh TG.
2. Võ Hoài N, sinh năm 19xx (có mặt).
Địa chỉ: Ấp Ch, xã K, huyện G, tỉnh TG.
3. Nguyễn Hữu Ng, sinh năm 19xx (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Y, xã K, huyện G, tỉnh TG.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 29/6/2021 bị cáo Võ Hoài P mượn xe mô tô 63B7-534.94 của anh Hồ Hoàng Q, đến nhà mẹ vợ của Nguyễn Hữu Ng để nhậu chung với người thanh niên tên Đ (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) tại xã TĐ. Trong lúc nhậu, Đ có đưa cho bị cáo 01 tép ma túy đá và nói “còn một miếng cầm về chơi đi”, bị cáo lấy bỏ túi, sau đó bị cáo về nhà của mình. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 30/6/2021, p điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B7-534.94 chở Nguyễn Hữu Ng, đến nhà vợ Na (ngụ ấp M, xã TĐ, huyện G) để nhậu, trong lúc điều khiển xe mô tô chở Ng, bị cáo đem theo 01 tép ma túy đá để trong túi áo phía trước mà Đ đưa cho bị cáo hôm trước, bị cáo và Ng nhậu tại nhà vợ Ng đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì bị cáo chở Ng trở về, trên đường điều khiển xe bị cáo lấy tép ma túy ra cầm trên tay phải và chạy xe đến đoạn đường thuộc ấp Y, xã K, huyện G lúc này khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, bị cáo và Ng bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bị cáo đang cầm 01 tép ma túy đá trên tay phải, sau đó lực lượng Công an tiến hành lập biên bản vụ việc, bị cáo và Ng có chứng kiến và ký tên niêm phong cùng một số người khác.
Vật chứng thu giữ gồm:
- Thu giữ của bị cáo Võ Hoài P:
+ 01 Gói nylon màu trắng hàn kín một đầu, một đầu kéo có viền màu đỏ bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy;
+ 01 Xe mô tô hai bánh Suzuki màu xanh biển số 63B7- 534.94 (đã trả lại cho Hồ Hoàng Q theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 15/7/2021);
+ 01 Điện thoại Oppo màu xanh ngọc (không kiểm tra chất lượng bên trong).
+ Tiền Việt Nam là 290.000 đồng.
- Thu giữ của Nguyễn Hữu Ng: 01 Điện thoại Samsung màu xanh (không kiểm tra chất lượng bên trong); Tiền Việt Nam đồng là 1.000.000 đồng (đã trả lại cho Ng theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 15/7/2021).
Kết luận giám định số 133/KLGĐ-PC09 ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng) trong 01 (một) gói ny lon được hàn kín để trong một bì thu màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi họ tên: Võ Hoài P, Nguyễn Hữu Ng, Phan Minh T, Võ Văn H, Bùi Th, Nguyễn D và hình dấu tròn màu đỏ ghi có nội dung: CÔNG AN XÃ K, CÔNG AN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG. Gửi giám định là ma túy, có tổng lượng là 0,1027 gam, loại Methamphetamine.
Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS.GCĐ ngày 28 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông đã truy tố: Bị cáo Võ Hoài P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh như Bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Võ Hoài p từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Về vật chứng, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 Bì thu được niêm phong ký hiệu vụ số: 133 ghi ngày 02 tháng 7 năm 2021, có chữ ký in họ tên: bên giao Nguyễn Thanh Tr (giám định viên), Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định), bên nhận chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Th và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 (một) gói nylon được dán kín chứa 0,0815 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 vỏ bao nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.
+ Trả lại bị cáo P: 01 Điện thoại Oppo màu xanh ngọc (không kiểm tra chất lượng bên trong); Tiền Việt Nam là 290.000 đồng.
Về án phí hình sự sơ thẩm, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo P phải chịu 200.000 đồng án phí.
Bị cáo P nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Gò Công Đông, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhu nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định, Biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, khoảng 23 giờ ngày 30/6/2021 tại ấp ấp Y, xã K, huyện G, tỉnh TG bị cáo Võ Hoài P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1027 gam ma túy (loại Methamphetamine) với mục đích sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Hoài p phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện và gây mất trật tự xã hội tại địa phương. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, trở thành công dân lương thiện và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và không có tiền án, tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[3] Về vật chứng:
- 01 Bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 133 ghi ngày 02 tháng 7 năm 2021, có chữ ký in họ tên: bên giao Nguyễn Thanh Tr (giám định viên), Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định), bên nhận chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Th và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 gói nylon được dán kín chứa 0,0815 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 vỏ bao nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.
- 01 Điện thoại Oppo màu xanh ngọc (không kiểm tra chất lượng bên trong); Tiền Việt Nam đồng 290.000 đồng là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với Nguyễn Hữu Ng khi được bị cáo điều khiển xe chở về nhà, trên tay bị cáo có cầm ma túy thì Ng hoàn toàn không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với Nghĩa là có cơ sở.
Đối với người thanh niên tên “Đ” (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể) đã đưa tép ma túy cho bị cáo P. Qua xác minh tại ấp M và ấp H, xã TĐ, huyện G không có ai tên Đ. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra chua xác định được đối tượng nên chưa làm việc được, khi xác định được nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.
[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí: Do nhận định bị cáo có tội nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Võ Hoài P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Võ Hoài P 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2021.
2. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 Bì thư được niêm P ký hiệu vụ số 133 ghi ngày 02 tháng 7 năm 2021, có chữ ký in họ tên: bên giao Nguyễn Thanh Tr (giám định viên), Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định), bên nhận chữ ký ghi họ tên: Phan Văn Th và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ - CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG; bên trong có 01 gói nylon được dán kín chứa 0,0815 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 01 vỏ bao nylon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.
+ Trả lại bị cáo Võ Hoài P: 01 Điện thoại Oppo màu xanh ngọc (không kiểm tra chất lượng bên trong); Tiền Việt Nam là 290.000 đồng.
Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/9/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Đông).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo p phải chịu 200.000 đồng án phí.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và anh N được quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2021/HS-ST
Số hiệu: | 54/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về