Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁNNHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, tòa án nhân dân thành phố Sông Công xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 bằng hình thức trực tuyến, trong đó điểm cầu Trung tâm tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; 01 điểm cầu Thành phần tại Công an thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đối với bị cáo:

Liêu Văn Th, sinh ngày 02 tháng 02 năm 1992 tại huyện L, tỉnh Thái Nguyên; HKTT: Xóm K, xã Hợp Thành, huyện L, tỉnh Thái Nguyên, Nơi ở hiện nay: Xóm Đ, xã B, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Liêu Văn Thức và bà Hoàng Thị Nga; Vợ: Dương Thị Th, con: có 01 con sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Sông Công tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt )

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hoàng Thị B - Luật sư Văn phòng Luật sư V, thuộc Đ Luật sư tỉnh Thái Nguyên (Có mặt )

-Người làm chứng: Anh Dương Văn Th, sinh năm 1988; Địa chỉ: Xóm L, xã B, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt) 

-Người chứng kiến:

Anh Dương Thành Q, sinh năm 1983; Địa chỉ: Tổ dân phố Y, phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.(Vắng mặt)

Anh Dương Văn H, sinh năm 1979; Địa chỉ: TDP Sau, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.(Vắng mặt)

-Người tham gia tố tụng khác: Đồng chí Trần Văn Đ – Cán bộ dẫn giải Công an thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại điểm cầu Công an thành phố Sông Công).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9h10 phút ngày 19/6/2022, Công an phường Lương Sơn tuần tra, kiểm soát trên địa bạn, khi đến đoạn đường dân sinh thuộc Tổ dân phố (TDP) Sau, phường Lương Sơn thì phát hiện Liêu Văn Th điều khiển xe môtô biển kiểm soát (BKS) 20B1 - xxxxx có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật, tổ công tác yêu cầu dừng lại để kiểm tra thì Th điều khiển xe bỏ chạy và bị ngã xuống vỉa hè đường bên phải thì có 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy Heroine) tại ốp cao su chân gương cH hậu bên phải của xe mô tô rơi ra ngoài. Th khai nhận là ma túy loại Heroine, Th mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an phường Lương Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra, còn tạm giữ của Th 01 điện thoại di động Nokia, màu đen và số tiền 272.000đ; 01 xe mô tô BKS 20B1- xxxxx.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công đã tiến hành trưng cầu giám định đối với số chất bột màu trắng thu giữ của Th. Tại bản kết luận giám định số 914/KL-KTHS ngày 28/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,211gam.

Quá trình điều tra làm rõ: Th là người nghiện ma túy, vào khoảng 07 giờ sáng ngày 19/6/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Th điều khiển xe mô tô, BKS 20B1 - xxxxx (là xe của anh Dương Văn Th sinh năm 1988, trú tại xóm L, xã B, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên), đi từ nhà trọ ở xóm Đ, xã B, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực đường tròn Sông Công để tìm mua ma túy. Tại đây, Th gặp một người đàn ông, khoảng 40 tuổi (Th không biết tên tuổi, địa chỉ) đang đứng ở hành lang đường, Th nói chuyện và hỏi “anh có biết bỗ nào bán đồ không”, ý hỏi có biết chỗ nào bán ma túy không, thì người này trả lời là “có biết”, qua trao đổi thì người này nhận mua hộ Th ma túy và yêu cầu được trả công số tiền 50.000đ thì Th đồng ý. Th đưa cho người đàn ông này 250.000đ, trong đó 200.000đ là tiền mua ma túy còn 50.000đ là tiền công, người đàn ông này nhận tiền và hẹn Th 9 giờ cùng ngày đến khu vực cổng chào khu công nghiệp Sông Công 2 (thuộc phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên) để lấy ma túy. Đến khoảng 9 giờ cùng ngày, Th đến điểm hẹn gặp người đàn ông trên thì được người này đưa cho 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 01 gói giấy bạc, Th nhận ma túy và cất giấu túi ma túy trên vào bên trong ốp cao su chân gương cH hậu bên phải của chiếc xe mô tô rồi điều khiển xe đi về. Khi Th đi được khoảng 20m thì bị Tổ công tác Công an phường Lương Sơn yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Do lo sợ bị phát hiện hành vi phạm tội, Th điều khiển xe mô tô lách về phía bên phải để bỏ chạy thì bị đổ xe ngã ra vỉa hè, túi nilon chứa ma túy cũng bị rơi ra ngoài. Tổ công tác Công an phường Lương Sơn, thành phố Sông Công phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu B, bên trong có 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu A, túi nilon, giấy bạc;

01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,201 gam mẫu còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu; số tiền 272.000đ được bảo quản theo quy định tại Công an thành phố Sông Công.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Liêu Văn Th đã khai nhận về hành vi của mình, Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 04/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã truy tố bị cáo Liêu Văn Th về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Liêu Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Liêu Văn Th mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu A, túi nilon, giấy bạc; 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,201 gam mẫu còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu.

Trả lại cho bị cáo Th điện thoại 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Th số tiền 272.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có tài sản riêng và không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Th trình bày bản bào chữa: xác định việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội. Bị cáo Th là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, tại phiên tòa bị cáo đã ăn năn về hành vi phạm tội của mình. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo ở mức án thấp nhất.

Bị cáo Liêu Văn Th không tranh luận, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Kết luận điều tra và Cáo trạng truy tố, bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Hồi 09 giờ 10 phút ngày 19/6/2022, tại khu vực đường dân sinh thuộc TDP Sau, phường Lương Sơn, Liêu Văn Th tàng trữ trái phép 0,211gam ma túy, loại heroine, để sử dụng cho bản thân thì bị Công an phường Lương Sơn, thành phố Sông Công phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng Hành vi nêu trên của bị cáo Liêu Văn Th đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, nội dung điều luật như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine.....….có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam....”

[3] Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng. Ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm cải tạo, giáo dục và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/12 thì ở nhà làm nghề tự do. Năm 2011 bị cáo thực hiện nghĩa vụ Q sự, sau khi xuất ngũ thì về nhà lập gia đình và làm nghề tự do.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: bị cáo là người đã thành niên, có hiểu biết xã hội nhất định, được gia đình tạo điều kiện nuôi ăn học, đã từng tham gia Q ngũ, nhưng không có ý thức tu dưỡng bản thân mà còn sa vào tệ nạn xã hội dẫn đến hậu quả vi phạm pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức án tương xứng với hành vi phạm tội, buộc cách ly xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7]Về vật chứng của vụ án: Số ma túy bị thu giữ của Th là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng và số tiền 272.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ số tiền 272.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

-Đối với chiếc xe mô tô, BKS 20B1 - xxxxx, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là anh Dương Văn Th, anh Th không biết việc Th sử dụng chiếc xe trên để đi mua túy, cơ quan CSĐT Công an thành phố Sông Công đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Th quản lý, sử dụng là phù hợp.

[08] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9]Về nguồn gốc số ma túy, khai mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ nên không có căn cứ xác minh xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Liêu Văn Th phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: bị cáo Liêu Văn Th 15 (Mười lăm) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2022.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có vỏ bì niêm phong ký hiệu A, túi nilon, giấy bạc; 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,201 gam chất ma túy, loại Heroin còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu;

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 272.000đ; (Số tiền đang được gửi tại tài khoản tạm gửi của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sông Công, mở tại kho bạc thành phố Sông Công.) Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng được đựng trong 01 bì niêm phong ký hiệu B.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/8/2022 giữa Công an thành phố Sông Công và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sông Công )

Về án phí: Bị cáo Liêu Văn Th phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;