Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn H, sinh năm 1990 ; tại Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình Nơi cư trú: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Ch và bà: Trần Thị H (đều đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 66/2015/HSST ngày 21/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 24/7/2017 chấp hành xong bán án.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/02/2022 đến ngày 12/02/2022 chuyển tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên toà).

- Người chứng kiến:

+ Anh Đàm Minh D, sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

+ Anh Trần Đức L, sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình

(Anh D, anh L đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 09/02/2022, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện của Trần Văn H, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q có biểu hiện liên quan đến ma túy tại chỗ ở nên đã mời đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến đến chỗ ở của H để làm việc. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và người chứng kiến, H đã giao nộp cho tổ công tác 03 gói nhỏ, trong đó 02 gói có vỏ ngoài là giấy trắng in mực nhiều màu, 01 gói là giấy trắng in mực màu đen, đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. H khai nhận đó là 03 gói Heroine của H để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra người H, tổ công tác không thu giữ, quản lý gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn H ở Thôn T, xã A, huyện Q không thu giữ gì.

Quá trình điều tra, bị cáo Trần Văn H khai nhận: Do nghiện ma túy từ năm 2014 nên khoảng 12 giờ ngày 09/02/2022, Hoàng đi bộ từ nhà ra đường liên xã, đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết, đến khu vực ngã tư M thị trấn A, huyện Q mua của một nam thanh niên không quen biết, 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng rồi cầm trong lòng bàn tay trái và đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết để về nhà. Sau đó chia 02 gói Heroine thành 03 phần và dùng giấy tờ lịch gói lại thành 03 gói nhỏ rồi Hoàng lấy 01 phần ở trong 01 gói nhỏ ra để sử dụng cho bản thân. Khi H vừa sử dụng xong thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang.

Bản kết luận giám định số 43/KL-MT ngày 10/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận“Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1808 gam (không phẩy một nghìn tám trăm linh tám gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ”.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên.

Bản cáo trạng số 51/CT-VKSQP ngày 23/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố Trần Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Trần Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Văn H và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận với nhau và với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh phụ, tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án (bút lục số: 51-64); phù hợp với bản tự khai và biên bản ghi lời khai của những người chứng kiến (bút lục số: 64 - 74). Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản quản lý, niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 12 giờ 45 phút, 14 giờ 30 phút ngày 09/02/2022 tại chỗ ở của Trần Văn H thuộc Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (bút lục số 01 - 02; 04 - 05); Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình lập hồi 17 giờ 35 phút ngày 09/02/2022, tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 43/KL-MT ngày 10/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 08 - 09). Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 09/02/2022, tại chỗ ở của Trần Văn H, sinh năm 1990, tại Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bị cáo Trần Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 03 gói Heroine, có khối lượng 0,1808 (Không phẩy, một nghìn tám trăm linh tám) gam, với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoảng 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận không tốt trên địa bàn nơi xảy ra vụ án.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào.Về các tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án kết án vào năm 2015 cần cân nhắc khi lượng hình đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[5] Về hình phạt chính: Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo Điều 38 của Bộ luật Hình sự để cách ly bị cáo H ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm ma túy nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo H tại phiên tòa bị cáo không có thu nhập, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 03 gói ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại loại Heroine (Hêrôin) và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về nguồn gốc số Heroine (Hêrôin), bị cáo H khai khai mua của người nam thanh niên khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ, tại khu vực ngã tư M, thị trấn A, huyện Q nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 01 (Một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 09/02/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,1305gam (không phẩy một nghìn ba trăm linh năm gam) mẫu vật gửi giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Trần Văn H trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 43/KL-MT của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình (Vật chứng trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 56 ngày 24/5/2022 giữa Công an huyện Quỳnh Phụ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 ;Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/7/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;