Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 28/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2021/HSST, ngày 18/11/2021; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST-HS, ngày 14/12/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 06/02/1993; quê quán: Xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn K, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đ C và bà Trần Thị T; anh chị em ruột có 03 người (bị cáo là con thứ hai); Vợ, con: Chưa; tiền sự, nhân thân: Không; Tiền án: Ngày 13/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 05 năm tù về tội “Hiếp dâm” bản án số: 09/2013/HSST, chấp hành xong ngày 31/8/2015, chưa xóa án tích; ngày 03/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” bản án số: 12/2017/HSST, chấp hành xong ngày 30/8/2019, chưa bồi thường dân sự và chưa xóa án tích; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/8/2021 đến ngày 25/8/2021 chuyển tạm giam, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt.

* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn N; sinh năm: 1960. Cư trú: Thôn K, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào tối ngày 18/8/2021 Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1993, trú tại thôn K, xã S, huyện H đi nhờ xe từ nhà đến khu vực Cổng B thuộc thôn Cây Tắt, xã S, huyện H để tìm mua ma tuý sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực cổng B, Đ gặp một người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ cụ thể), Đ hỏi mua 1.500.000 đồng tiền hồng phiến, thì người này đồng ý và đưa cho Đ một gói ni lông màu vàng, biết bên trong có hồng phiển nên Đ cầm lấy, trả tiền rồi xin đi nhờ xe người dân về nhà. Khi về đến nhà, Đ mở gói ni lông màu vàng vừa mua được ra kiểm tra, thấy bên trong có 22 viên hồng phiến, Đ gói lại cất giấu rồi đi ngủ. Sáng ngày 19/8/2021, Đ lấy 02 viên hồng phiến trong gói ni lông màu vàng mua ngày hôm qua ra sử dụng hết, số hồng phiến còn lại, Đ chia ra ba gói ni lông màu vàng, trong đó 01 gói đựng 10 viên hồng phiến, 02 gói còn lại mỗi gói đựng 05 viên hồng phiến, bên ngoài mỗi gói này đều quấn băng dính màu đen rồi giấu vào trong túi quần đùi bên trái Đ đang mặc. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/8/2021, Đ mang theo 03 gói ni lông đựng hồng phiên trong túi quần đùi bên trái rồi đi bộ từ nhà theo đường liên thôn thuộc thôn K, xã S, huyện H để tìm địa điểm sử dụng ma tuý. Khi Nguyễn Văn Đ đi được khoảng 100 mét thì lực lượng Công an yêu cầu kiểm tra, phát hiện trong túi quần đùi bên trái của Đ đang mặc có 03 gói ni lông màu vàng (bên ngoài mỗi gói quấn băng dính màu đen), trong đó 01 gói đựng 10 viên nén màu hồng, 02 gói còn lại mỗi gói đựng 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY. Nguyễn Văn Đ khai nhận 20 viên nén màu hồng này là ma túy dạng hồng phiến, Đ mua về để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang.

* Tại bản Kết luận giám định số: 151/GĐMT-PC09, ngày 25/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận: 20 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu chữ WY gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng: 2,2464gam.

Vật chứng vụ án: 2,2464gam Methamphetamine, sau khi lấy mẫu giám định còn lại 2,0448gam Methamphetamine được bỏ vào một phong bì thư dán kín lại, trên mép dán có chữ ký các thành viên và bị cáo Nguyễn Văn Đ, bên trong đựng toàn bộ vỏ bao gói, đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại bản Cáo trạng số: 53/CT-VKS-HS, ngày 17/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm 0 khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm 0 khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 20/8/2021).

- Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Văn Đ bên trong đựng 2,0448gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định cùng toàn bộ vỏ bao gói đây là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tài sản riêng, gia Đ hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố tại phiên tòa hôm nay là đúng và không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những người tham gia tố tụng: Người chứng kiến anh Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không có lý do. Bị cáo và đại diện Viện kiểm sát không yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của anh N không ảnh hưởng đến quá trình làm sáng tỏ diễn biến trong vụ án nên quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tình tiết định tội, định khung, tính chất mức độ hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ; phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy có đủ cơ sở khẳng định vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 20/8/2021 Nguyễn Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,2464gam Methamphetamine ở trong người nhằm mục đích để sử dụng tại đoạn đường liên thôn K, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự Việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội khi đang có hai tiền án: Bản án số:

09/2013/HSST, ngày 13/3/2013 Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 05 năm tù về tội “Hiếp dâm” chấp hành xong ngày 31/8/2015, chưa xóa án tích và bản án số:

12/2017/HSST, ngày 03/5/2017 Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong ngày 30/8/2019, chưa bồi thường dân sự và chưa xóa án tích nên phải chịu nên phải chịu tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm 0 khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự. Vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ, khi con người sử dụng sẽ đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người nhưng để thỏa mạn cơn nghiện cho bản thân bị cáo đã bất chấp. Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang xem tệ nạn ma túy là một hiểm họa, các ngành chức năng đang tập trung nhiều biện pháp để ngăn chặn và đẩy lùi hiểm họa này thì hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật, bị cáo là một thanh niên không chịu lao động, sản xuất mà sớm rơi vào lối sống buông thả nghiện ma tuý, hành vi đó làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội và gây hoang mang lo lắng cho mọi người. vì vậy Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, nhân thân, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,

- Về tình tiết tăng nặng và nhân thân: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần.

[4] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Đ tại khu vực cổng B thôn Cây Tắt, xã S, huyện H do Đ không biết nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xác minh, Cơ quan CSĐT Công an huyện H không có căn cứ xử lý, Viện kiểm sát không truy tố nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn Đ không có tài sản riêng, gia Đ hoàn cảnh khó khăn nên miễn phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Văn Đ bên trong đựng 2,0448gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định cùng toàn bộ vỏ bao gói đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm đề nghị xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp nhận định Hội đồng xét xử và đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về điều luật: Căn cứ điểm 0 khoản 2 Điều 249, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

- Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 20/8/2021).

- Về vật chứng vụ án: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư, dán kín, trên mép dán có chữ ký các thành phần tham gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Văn Đ bên trong đựng 2,0448gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu giám định cùng toàn bộ vỏ bao gói (đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2021).

- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2021/HS-ST

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;