Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 52/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

 BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 09 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 08 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 08 năm 2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn L, sinh ngày 07/06/1977 tại xã V - Huyện L - Tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm Ấ – Xã V - Huyện L - Tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn K, sinh năm 1933 (đã chết) và bà Bùi Thị T, sinh năm 1936 (đã chết); bị cáo có vợ là Bùi Thị A, sinh năm 1980 và có 01 con; Tiền án: 02 tiền án, ngày 28/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 25/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/06/2021 đến nay; được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Bùi Thị A, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Xóm Ấ, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Người chứng kiến:

+ Bùi Văn T, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Xóm C, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Văn C, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Xóm R, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do bản thân nghiện ma túy, nên sáng này 13/6/2021 Bùi Văn L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28N1 - 084.78 đi từ nhà ở xóm Ấm, xã Văn Nghĩa đến khu vực thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, L gặp và mua được 01 (một) nilon bên trong có chứa 07 (bảy) gói giấy gồm 02 (hai) gói giấy to và 05 (năm) gói giấy nhỏ bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất ma túy với số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) của một người đàn ông không quen biết (không rõ tên, tuổi, địa chỉ), sau đó L điều khiển xe mô tô quay trở về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn và Công an xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Riệc, xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn phát hiện và bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bên trong túi quần bên trái phía trước Bùi Văn L đang mặc. Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng, đưa Bùi Văn L về trụ sở Công an huyện Lạc Sơn để làm rõ.

Tại bản Kết luận giám định số 175/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 21/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: 07 (bảy) mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Bùi Văn L, sinh năm 1977, trú tại xóm Ấm, xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình” gửi giám định có tổng khối lượng 0,32 g (không phẩy ba mươi hai gam) là ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra, truy tố Bùi Văn L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được Đối với người đàn ông bán ma túy cho Bùi Văn L vào ngày 13/06/2021 tại thị trấn Vụ bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình do không rõ tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng nên không có căn cứ để xác minh và xử lý.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã thu giữ:

+ 07 (bảy) mẫu ma túy, loại Heroine (M1: 0,01g; M2: 0,01g: M3: 0,05g; M4: 0,02g; M5: 0,02g; M6: 0,02g; M7: 0,04g) cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau khi giám định. Hiện vật chứng được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn quản lý chờ xử lý.

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 28N1 - 084.78, trong quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu quản lý, bảo quản.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 25 tháng 08 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố Bùi Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Lạc Sơn, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; Đề nghị HĐXX:

+ Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm tù;

+ Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Đề nghị tuyên tịch thu để tiêu huỷ đối với khối lượng chất ma túy loại Heroine cùng cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và tuyên các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Quá trình tranh tụng. Bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Người tham gia tố tụng khác, không có ý kiến hay yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy lời khai nhận của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 13/06/2021; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định số 175/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 21/06/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình; lời khai của những người tham gia tố tụng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 10 giờ 00 phút, ngày 13/6/2021 tại xóm Riệc, xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,32 (không phẩy ba mươi hai gam) ma túy, loại Heroine bên trong túi quần bên trái phía trước Bùi Văn L đang mặc với mục đích cùng sử dụng cho bản thân. Trước lần phạm tội này, bị cáo đã có 2 tiền án cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” chưa được xóa án tích. Do đó hành vi của bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”,bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm hại đến chính sách về quản lý chất ma túy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ sai trái do hành vi gây ra. Song vì là người nghiện ma túy nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Do vậy, bị cáo Bùi Văn L phải hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện [4]Xét nguyên nhân, điều kiện phạm tội cho thấy: Do bị cáo là các đối tượng nghiện ma túy, việc tàng trữ là để phục vụ cho việc thỏa mãn cơn nghiện là nguyên nhân, điều kiện chính dẫn tới hành vi phạm tội.

[5]Xét nhân thân của các bị cáo: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Bị cáo là người nghiện ma túy lâu năm, đã bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử và kết án 02 lần về hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Lẽ ra qua lần bị xử lý trước đây, bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân và từ bỏ hành vi vi phạm pháp luật. Mà ngược lại bị cáo lại tiếp tục lao xâu vào con đường phạm tội, hành vi đó thể hiện sự coi thường pháp luật.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử xét thấy : Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Lạc Sơn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Bùi Văn L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về các vấn đề khác : Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Bùi Văn L tại thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn vào ngày 13/6/2021 mà bị cáo đã khai. Xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được họ, tên, tuổi, địa chỉ vì vậy chưa có cơ sở xem xét, xử lý do đó Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với Bùi Thị A, cư trú tại xóm Ấm, xã Văn Nghĩa, huyện Lạc Sơn là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28N1 - 084.78. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Sơn không đề cập xử lý là có căn cứ.

[8] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết cụ thể của vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như đáp ứng mục đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị xử phạt bổ sung. Song xem xét cụ thể trường hợp của bị cáo, xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị và việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là không có tính khả thi. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Văn L.

[9]Về xử lý vật chứng vụ án:

Xét thấy việc xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 28N1 - 084.78 cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Bùi Thị A của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn là đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với các mẫu chất ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định cần được tịch thu tiêu hủy sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[10]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

+ Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 13/06/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với:

+ Tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với: 01 (một) phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn mẫu giám định ma túy của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình số thông báo kết luạn giám định số 175 ngày 21/06/2021, tên đối tượng Bùi Văn L. Mép dán có dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong. Bên trong có chứa 0,17 gam ma túy, loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói lại sau khi giám định.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Lạc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn ngày 25/08/2021).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo cùng thời hạn về các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 52/2021/HS-ST

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;