Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 26/2022/TLST - HS ngày 29/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 31/3/2022 đối với bị cáo:

Bùi Văn Q, sinh năm 1989; đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm Â, xã V, huyện L, tỉnh H; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Mường; giới T: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Nh và bà Bùi Thị T; có vợ là Bố Thị T và có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10/10/2018, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thời gian 22 tháng). Ngày 03/6/2020, chấp hành xong; nhân thân: Ngày 24/7/2009, UBND huyện L, H ra quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, thời gian 24 tháng (QĐ số 2034/QĐ); bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/12/2021 đến ngày 30/12/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an Thành phố Hà Nội. “Có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Quang Đạo là trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội. “Có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Bùi Văn D, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Xóm S, xã M, huyện L, tỉnh H. “Vắng mặt”;

2. Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1972; nơi cư trú: Thôn L, xã G, huyện G, tỉnh N. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/12/2021, Q có gặp anh Phạm Văn T, SN: 1972, HKTT: L, G, G, N (là chủ cai xây dựng) và xin anh T ứng trước cho Q số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) tiền công lao động để Q đi chuộc điện thoại đồng thời mượn của anh T 01 chiếc xe máy kiểu dáng Honda Wave S, BKS: 18K1-203.52 để đi lại. Anh T đồng ý. Sau khi mượn được xe và xin tạm ứng được tiền, Q rủ Bùi Văn D đi chuộc điện thoại cùng. D đồng ý. Sau đó, Q dùng xe máy BKS: 18K1-203.52 chở D đi từ lán trọ tại khu vực thị trấn Trâu Quỳ – Gia Lâm – Hà Nội đi lên khu vực cửa hàng cầm cố điện thoại ở xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Tuy nhiên, khi đang đi trên đường thì Q đã nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Do vậy, Q đã không điều khiển xe máy đi vào cửa hàng điện thoại mà tiếp tục đi thẳng về hướng tỉnh Bắc Ninh. Thấy vậy, D hỏi Q “thế không chuộc điện thoại à?”. Q trả lời: “đi mua thuốc sau đó sẽ về chuộc điện thoại”, D đáp lại “ làm gì thì làm nhưng nhớ để tiền chuộc điện thoại”. Sau đó, Q tiếp tục điều khiển xe đi lên khu vực thành phố Từ Sơn – tỉnh Bắc Ninh. Khi Q và D đi đến 01 quán thuốc ở ven đường, thì Q dừng xe lại, đưa cho D số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) và bảo D đi mua xi lanh và lọ nước cất để Q đi mua thuốc. D đồng ý, đi vào hiệu thuốc mua được 02 (hai) chiếc xi lanh và 02 (hai) lọ nước cất (Novocain) còn Q điều khiển xe đến khu vực gần nghĩa trang thuộc Từ Sơn – Bắc Ninh và mua của một nam thanh niên không rõ nhân thân 02 (hai) gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng)/ 01(một) gói. Q đưa cho người này 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), người này cầm tiền rồi đưa lại cho Q 02 (hai) gói giấy màu trắng, Q biết đây là ma túy nên đã cầm ở lòng bàn tay trái của mình rồi điều khiển xe ra đón D đi về. Khi đi đến khu vực Dốc Lã – Yên Thường – Gia Lâm – Hà Nội thì bị lực lượng công an dừng xe kiểm tra. Lúc này, do sợ hãi Q đã thả 02 (hai) gói ma túy vừa mua được xuống đường ngay sát vị trí Q đang đứng và đã bị lực lượng công an phát hiện yêu cầu Q nhặt lên. Q nhặt lên giao nộp cho lực lượng công an, qua kiểm tra có đặc điểm là 02 (hai) gói giấy màu trắng khi mở ra bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Q khai nhận đây là ma túy Heroine Q mua về để sử dụng. Kiểm tra D thì phát hiện tại túi áo khoác D đang mặc có 02 (hai) xi lanh được bọc kín chưa qua sử dụng và 02 (hai) lọ Novocain chưa qua sử dụng. Sau đó, lực lượng công an tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật rồi đưa Quy và D cùng tang vật về trụ sở để tiếp tục làm rõ.

Vật chứng thu giữ, tạm giữ của Bùi Văn Q: 02 (hai) gói giấy màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01(một) xe máy kiểu dáng Honda Wave S, BKS: 18K1-20352, số khung: 039540, số máy: 1135168, xe cũ đã qua sử dụng; số tiền 620.000đ.

Vật chứng thu giữ, tạm giữ của Bùi Văn D: 02 (hai) xi lanh được bọc kín chưa qua sử dụng; 02 (hai) ống Novocain, chưa qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 9171/KLGĐ ngày 29/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) gói giấy đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,124 gam.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSGL ngày 26/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Bùi Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn Q từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù T từ ngày bắt 21/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của bị cáo; xi lanh, nước cất dùng sử dụng ma túy.

Trả lại bị cáo số tiền 620.000 đồng.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan Điều tra, bị cáo đã ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của người bào chữa: Đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế; thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải; lần đầu phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] . Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Vào hồi 12 giờ 30 phút, ngày 21/12/2021, tại khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, Bùi Văn Q có hành vi tàng trữ 0,124 gam heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng kinh tế, sức khỏe và chất lượng giống nòi.

Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự liên quan đến ma ma túy theo quy định của pháp luật đã được xóa; 01 tiền sự là ngày 10/10/2018, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thời gian 22 tháng). Ngày 03/6/2020, chấp hành xong chưa được xóa điều này thể hiện bị cáo không chịu rèn luyện cải tạo mình thành công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Từ những phân tích trên cần cách ly bị cáo một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3]. Về vật chứng:

- Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

hủy;

- Đối với vật dụng là xi lanh, nước cất dùng sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu - Đối với số tiền 620.000 đồng thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại;

- Đối với 01 chiếc xe máy kiểu dáng Honda Wave S, BKS: 18K1-20352, qua điều tra xác định thuộc sở hữu của anh Phạm Văn T, SN: 1972, HKTT: L , G, G, N. Do vậy, CQCSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã trao trả chiếc xe máy trên cho anh Phạm Văn T là có căn cứ.

4]. Các vấn đề khác:

- Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Bùi Văn Q, do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra - Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý;

- Về vấn đề đồng phạm: Bản thân Bùi Văn D không bàn bạc, thống nhất, không góp tiền, tài sản hay công sức gì với Q để đi mua ma túy, tàng trữ ma túy. Do vậy, không có cơ sở kết luận Bùi Văn D đồng phạm với Bùi Văn Q.

[5]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn Q 15 tháng tù. Thời hạn tù T từ ngày 21/12/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Bùi Văn Q, cán bộ niêm phong, giám định viên và hình dấu của Công an xã Đình Xuyên. Bên trong phong bì là ma túy loại Heroine tổng khối lượng 0,114 gam (đã trích mẫu 0,010 gam); 01 phong bì niêm phong bên ngoài có hình dấu của Công an xã Đình Xuyên và chữ ký của Bùi Văn D, bên trong có 02 xi lanh được bọc kín chưa qua sử dụng và 02 lọ novocain chưa qua sử dụng.

Trả lại bị cáo số tiền 620.000 đồng.

Số vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29/3/2022 giữa Công an huyện Gia Lâm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm và biên lai thu tiền số: 0054893 ngày 31/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm.

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;