Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HS, ngày 12/7/2022, đối với bị cáo:

Tô Văn T, sinh ngày 31/8/1995, tại huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở: Thôn NC, xã XQ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; bố đẻ: Tô Văn C, sinh năm 1977; mẹ đẻ: Hà Thị T1, sinh năm 1976; vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không;

Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 28/10/2020 bị TAND huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, do nghiện ma túy, thời gian chấp hành tại cơ sở cai nghiện bắt buộc là 01 năm 06 tháng. (Tại Quyết định số 10/QĐ-TA ngày 28/10/2020 - đang chấp hành thì bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện).

Nhân thân:

+ Bản án số 26/2018/HSST ngày 13/6/2018 của TAND huyện Chiêm Hóa tuyên phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội Tổ chức đánh bạc, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 13/6/2018 (đã chấp hành xong ngày 13/6/2020).

+ Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã số 113/QĐ-UBND ngày 17/7/2018 của UBND xã XQ, huyện CH, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, với thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 11/7/2018 (đã chấp hành xong ngày 11/10/2018).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 02/4/2022, T một mình đi bộ từ nhà đến khu vực cầu Q thuộc thôn LA, xã XQ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang mục đích tìm mua chất ma túy để sử dụng. Khi đến nơi T gặp một người đàn ông không quen biết, hỏi mua được 01 gói nhỏ chất ma túy, có đặc điểm bên ngoài gói bằng lớp giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng là Heroine với số tiền 200.000 đồng. Mua được Heroine T đã sử dụng hết một phần bằng cách đốt hít vào cơ thể; số Heroine còn lại T gói lại như cũ và cất giấu vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Khoảng 07 giờ 45 phút cùng ngày, khi T về đến khu vực gần UBND xã XQ, huyện CH (thuộc thôn LA, xã XQ) thì gặp tổ công tác Công an huyện CH và Công an xã XQ đang làm nhiệm vụ phát hiện, do nghi T có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, Tổ công tác đã yêu cầu T về trụ sở UBND xã XQ để làm việc. Quá trình làm việc T đã tự giác giao nộp 01 gói Heroine có đặc điểm nêu trên. Tổ công tác Công an huyện CH đã T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Cùng ngày T hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với T, có kết quả: (+) Dương tính (có chất ma túy trong cơ thể).

Tại Kết luận giám định số 418/GĐKTHS ngày 06/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Chất bột vón cục màu trắng gửi giám định là chất ma túy, Loại Heroine; có khối lượng là 0,180g (không phẩy một tám không gam).

Tại Cáo trạng số 53/CT-VKSCH, ngày 11 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa đã truy tố bị cáo T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 02/4/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không có tính vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy khối lượng Heroine thu giữ của bị cáo đã được niêm phong.

- Đối với người đàn ông bán Heroine cho T quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

- Áp dụng các Điều 135, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án.

Tại phiên tòa bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định. Bị cáo nhất trí luận tội, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 02/4/2022, tại thôn LA, xã XQ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang, T đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,180g (không phẩy một tám không gam) Heroine, mục đích để sử dụng. Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an, tạo dư luận xấu tại địa phương và là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Bị cáo có 01 tiền sự và là người có nhân thân xấu: Tại Quyết định số 10/QĐ-TA ngày 28/10/2020 Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, do nghiện ma túy, thời gian chấp hành tại cơ sở cai nghiện bắt buộc là 01 năm 06 tháng (đang chấp hành thì bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện). Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tù nghiêm minh tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, khối lượng chất ma tuý mà bị cáo tàng trữ, cũng như nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, có căn cứ.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là người lao động tự do, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo nhằm mục đính sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Đối với số Heroine thu giữ của bị cáo đã được niêm phong là vật chứng vụ án, đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của T, ngày 22/6/2022 Công an huyện Chiêm Hóa đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-XPHC, bằng hình thức phạt: Cảnh cáo, nên không xem xét xử lý.

[8]. Đối với người bán ma túy cho bị cáo T, do không xác định được họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[9]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 02/4/2022.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số heroine đã thu giữ của T, vật chứng là 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của T, thành phần tham gia và 05 (năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật vụ T.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chiêm Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa ngày 22/7/2022.

4. Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;