Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 50/2023/HS-ST NGÀY 24/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2023 tại phòng xử án - trụ sở Tòa án nhân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 34/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Thanh T, tên gọi khác: không;

Sinh năm 1X, tại Thành phố Hồ Chí Minh Hộ khẩu thường trú: 509 Nguyễn X, Phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: làm tóc; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Sơn I và bà Đào Huệ E; chồng con: không có; Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là người thứ nhất trong gia đình.

Nhân thân:

Từ nhỏ đi học và sinh sống cùng với gia đình tại 509 Nguyễn X, Phường Y, quận Z.

Tiền sự, Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/12/2022.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Đoàn Diệp Anh P, tên gọi khác: không; Sinh năm: 1X, tại Thành phố Hồ Chí Minh Hộ khẩu thường trú: 42/14/34 Hoàng Hoa A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Diệp G và bà Lê Thị H; vợ con: không có; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Nhân thân:

- Từ nhỏ đi học và sinh sống cùng với gia đình tại 42/14/34 Hoàng Hoa A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Đi học đến lớp 11 thì nghỉ học.

- Ngày 24/12/2014, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt Đoàn Diệp Anh P 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội Cướp giật tài sản (theo Bản án 265/HSST/2014). Ngày 24/12/2019, chấp hành xong thời gian thử thách. Đã đóng án phí. Đã xóa án tích. (BL 146-152) - Ngày 22/8/2019, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình với thời gian 21 tháng. BL (142-145) Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/12/2022.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3.Những người tham gia tố tụng khác:

-Không có

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 01 giờ 45 phút ngày 01/12/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Bình Thạnh phối hợp Đội Cảnh sát quản lý hành chính về Trật tự xã hội Công an quận Bình Thạnh kiểm tra hành chính Phòng 402 Khách sạn Đại Hồng địa chỉ 142 Nơ Trang L, phường D, quận C. Tại đây, có mặt Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P. Qua kiểm tra Công an phát hiện và thu giữ: Bên trong bồn chứa nước bồn cầu trong nhà vệ sinh có 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa gắn vào nắp nhựa màu trắng. Trong hộc tủ thứ nhất cạnh giường ngủ có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 0,2456g và 01 ống hút nhựa màu vàng được cắt xéo một đầu. T và P khai nhận số chất trên là ma túy đá, P và T mua về cả hai cùng sử dụng. Sau đó, cơ quan Công an lập biên bản phạm tội quả tang, tiến hành niêm phong số chất trên dưới sự chứng kiến của T, P và lập hồ sơ xử lý lập hồ sơ chuyển Đội Cảnh sát Ma túy Công an quận Bình Thạnh thụ lý giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P khai nhận hành vi phạm tội như trên. T và P khai nhận:

T và P có quan hệ tình cảm được 06 tháng. Khoảng 01 tuần trước khi bị bắt, P thuê Phòng 402 Khách sạn Đại Hồng địa chỉ 142 Nơ Trang L, phường D, quận C để sống chung với T và cả hai sử dụng ma túy đá tại đây. Thông qua bạn bè ngoài xã hội, T biết đối tượng Thanh K (không rõ lai lịch, chỉ biết nick Zalo “Thanh K”) bán ma túy đá. T là người liên lạc với Thanh K mua ma túy, còn tiền mua ma túy thì P sẽ bỏ ra, nếu T có tiền thì T vẫn bỏ ra để mua ma túy về cả hai sử dụng. P hoàn toàn không biết T mua ma túy của ai.

Tối ngày 29/11/2022, P rủ T sáng ngày 30/11/2022 mua ma túy về sử dụng và T đồng ý. Lúc 05 giờ 17 phút ngày 30/11/2022, P chuyển 300.000 đồng cho T để mua ma túy về sử dụng, cả hai giao dịch qua ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội MB bank. Rồi T liên lạc zalo với Thanh K hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá, Thanh K đồng ý bán và hẹn giao dịch gần chùa Vạn V, Phường Tân S, Quận R. T một mình đến điểm hẹn gặp Thanh K để mua ma túy, sau đó T mang ma túy về khách sạn bỏ vào nỏ sử dụng hết với P. Khoảng 20 giờ cùng ngày, cả hai tiếp tục muốn sử dụng ma túy nên P nói T liên lạc mua ma túy, T liên lạc với Thanh K hỏi mua 01 gói ma túy đá giá 400.000 đồng. Sau đó, Thanh K đến trước Khách sạn Đại Hồng giao ma túy cho T, T chưa trả tiền mua ma túy, T dự định sau khi sử dụng xong thì sẽ nói cho P biết để P đưa tiền rồi trả Thanh K. Sau khi mua ma túy, T mang lên phòng bỏ một ít ma túy vào nỏ sử dụng chung với P, số ma túy còn lại T bỏ trong hộc tủ thứ nhất cạnh giường ngủ để cả hai sử dụng sau. Đến khoảng 01 giờ 45 phút ngày 01/12/2022, T và P đang sử dụng ma túy tại Phòng 402 Khách sạn Đại Hồng thì bị Công an kiểm tra như trên.

Căn cứ Kết luận giám định số 7119/KL-KTHS ngày 09/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2456g là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine. (BL42) Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKSBTh ngày 14 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, đã truy tố bị can Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

2. Tại phiên tòa, Bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Các bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đoàn Diệp Anh P từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng còn lại 0,1812g là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine.

- Trả lại cho T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng số 0938.307.X, đây là điện thoại của T dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 máy tính bảng Galaxy Tab A số 0708.050.X, đây là tài sản của T dùng hoạt động phạm tội.

- Tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh số 0783.501.X, đây là điện thoại của P dùng hoạt động phạm tội.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa được gắn vào nắp đậy màu trắng, đây là công cụ của T tự làm dùng để sử dụng ma túy đá.

+Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng theo quy định.

3. Phần Tranh luận - Các bị cáo không tham gia tranh luận

4. Trong lời nói sau cùng, Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh:

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo tại phiên tòa: 02 bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố đối với 02 bị cáo. Căn cứ vào lời khai nhận tội của 02 bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của 02 bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 01 giờ 45 phút ngày 01/12/2022 tại 402 Khách sạn Đại Hồng địa chỉ 142 Nơ Trang L, phường D, quận C, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Bình Thạnh phối hợp Đội Cảnh sát quản lý hành chính về Trật tự xã hội Công an quận Bình Thạnh kiểm tra bắt quả tang Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,2456g là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine. T và P thỏa thuận mua ma túy và cất giấu số ma túy trên là để sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Kết luận giám định số 7119/KL-KTHS ngày 09/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2456g là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine. (BL42) Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách hiệm hình sự:

[3.1] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng. Bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo P là người rủ rê bị cáo T trong việc phạm tội. Hành vi của 02 bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, đến sức khỏe của con người, làm lây lan tệ nạn nghiệp ngập ma túy trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống các tội phạm về ma túy và các tệ nạn khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, cách ly 02 bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm giáo dục 02 bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, chấp hành pháp luật, đồng thời giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3.2] Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

- Bị cáo Phạm Thanh T không có tiền án, tiền sự, không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Thanh T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Bị cáo Đoàn Diệp Anh P có nhân thân xấu, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[3.3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy 02 bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249, Bộ luật hình sự đối với 02 bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng còn lại là 0,1812g là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng số 0938.307.X, đây là điện thoại của T dùng để liên lạc với gia đình, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho T.

- 01 máy tính bảng Galaxy Tab A số 0708.050.X, đây là tài sản của T dùng hoạt động phạm tội nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước, - 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh số 0783.501.X, đây là điện thoại của P dùng hoạt động phạm tội nên tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước.

- 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa được gắn vào nắp đậy màu trắng, đây là công cụ của T tự làm dùng để sử dụng ma túy đá, không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Đối với đối tượng tên Thanh K là người bán ma túy cho Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P, hiện không rõ lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh tiếp tục truy xét, xác minh đối tượng Thanh K làm rõ xử lý sau.

Việc Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P sử dụng ma túy tại khách sạn thì khách sạn không biết nên không đủ cơ sở xử lý hình sự đối với Khách sạn Đại Hồng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh đề nghị Cơ quan chức năng xem xét xử lý hành chính theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh T và Đoàn Diệp Anh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1 Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xư phat bị cáo Phạm Thanh T 01(một) năm tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2022 2.2. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xư phat bị cáo Đoàn Diệp Anh P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 12 năm 2022.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói được niêm phong bên ngoài ghi số vụ 1422/22 cùng các chữ ký ghi tên của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và Điều tra viên Phan Thanh Tú, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,1812g.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng số 0938.307.X.

- Tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 máy tính bảng Galaxy Tab A số 0708.050.X, 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh số 0783.501.X.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa được gắn vào nắp đậy màu trắng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 3 năm 2023 giữa Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh quận Bình Thạnh với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh).

4. Về án phí sơ thâm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo Phạm Thanh T, Đoàn Diệp Anh P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Bị cáo Phạm Thanh T, Đoàn Diệp Anh P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2023/HS-ST

Số hiệu:50/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;