Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 50/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:38/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Văn C, tên gọi khác: Không, sinh năm 1964 tại huyện T, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản Q, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Văn Q (đã chết) và con bà Chảo Thị N (đã chết); vợ: Tẩn Thị N - sinh năm 1966; con: có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1984, con nhỏ nhất sinh năm 2005.

Tiền án; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 06/9/2020, đến ngày 09/9/2020, bị can bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” tại xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu. Ngày 13/9/2021, bị cáo Lý văn C bị bắt theo quyết định truy nã và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện U đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng: Anh Vàng A P - sinh năm: 1989. Trú tại: Bản K, xã Ht, huyện T, tỉnh Lai Châu (có mặt).

* Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Hữu Q – sinh năm: 1980. Trú tại: Bản P, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

2. Anh Chảo Văn D – sinh năm: 2000 (có mặt).

3. Anh Cầm Quốc K – sinh năm: 1993 (vắng mặt).

Đều trú tại: Tổ dân phố x, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu.

4. Chị Nguyễn Thị T – sinh năm: 1984. Trú tại: Bản C, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

* Người phiên dịch tiếng Dao cho bị cáo: Ông Liều Văn N - sinh năm: 1992. Trú tại: Bản Hoà Hợp, thị trấn U, huyện U, tỉnh Lai Châu (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 06/9/2020, Lý Văn C đi bộ từ nhà lên nhà Vàng A P để nhờ P lấy xe mô tô chở C đi mua thóc ăn, P đồng ý. Sau đó, P lấy xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại SIRIUS, màu sơn đen biển kiểm soát 25U1-034.73 chở C đi xuống bản Liên Hợp, xã Pắc Ta, huyện U tìm mua thóc nhưng do không mua được nên C nhờ P chở đi xuống bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu chơi. Đến bản Noong Thăng, xã Phúc Than, C bảo P dừng lại vào quán nước gần đó ngồi còn C đứng ở ngoài đường thì gặp và nhờ 01 người đàn ông dân tộc Thái không rõ nhân thân lai lịch mua 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 200.000 đồng rồi C trích 01 ít Heroine để trả công cho người đàn ông này. Sau đó, người đàn ông kia đi đâu C không biết còn C cầm gói Heroine ở tay trái rồi gọi P đi về. C không nói cho P biết là C đang tàng trữ trái phép ma túy trên người, P cũng không biết C có ma túy trên người. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi P chở C đi về đến khu vực nghĩa trang bản Sơn Hà, xã Pắc Ta, huyện U thì C bảo P dừng xe. Sau đó C đi vào nghĩa trang tìm nơi sử dụng và P cũng theo sau với mục đích để xem C làm gì. Đến 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi C chuẩn bị lấy gói Heroine ra để sử dụng thì bị lực lượng Công an xã Pắc Ta, huyện U phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của Lý Văn C: 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu xanh có khối lượng 0,39 gam.

Ngày 06/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại bản Kết luận giám định số 120 ngày 07/9/2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: 01 gói chất bột khô, màu trắng đục, vón cục bên ngoài gói bằng mảnh nilon màu xanh có khối lượng là 0,39 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U đã trích 0,15 gam trong tổng số 0,39 gam chất bột khô, màu trắng đục theo Lý Văn C khai nhận là Heroine gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 482/GĐ-KTTH ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “01 mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Sau khi bị khởi tố, Lý Văn C bỏ trốn khỏi địa phương, bị truy nã, đến ngày 13/9/2021, Lý Văn C bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước bắt theo quyết định truy nã. Sau khi bị tạm giam, Lý Văn C không nói, chỉ gật đầu, lắc đầu khi được hỏi về nội dung vụ án. Tại bản Kết luận giám định pháp y về tâm thần theo trưng cầu số 138/KLGĐ ngày 07/12/2021 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền núi P Bắc - Bộ Y tế kết luận: “1. Lý Văn C, sinh năm 1964, trú tại bản Quyết Tiến, xã Pắc Ta, huyện U, tỉnh Lai Châu không bị bệnh Tâm thần. 2. Hiện tại Lý Văn C không bị bệnh Tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi”.

Bản Cáo trạng số 09/CT -VKS - TU, ngày 06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U, tỉnh Lai Châu truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện U để xét xử Lý Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lý Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lý Văn C mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ Luật Tố tụng Hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,24 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu xanh.

Người bào chữa sau khi phân tích nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn C đồng ý với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa, bị cáo không bổ sung gì thêm.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo không nói gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện U, tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện U tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn C không nói, tuy nhiên bị cáo vẫn gật đầu thừa nhận toàn bộ lời khai trong quá trình điều tra, truy tố của bị cáo là tự nguyện, khách quan và đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Hồi 14 giờ 10 phút, ngày 06/9/2020, tại bản Sơn Hà, xã Pắc Ta, huyện U, tỉnh Lai Châu, Lý Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,39 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện U phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, tuy nhiên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Xét thấy, hành vi của bị cáo không những làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn mà còn làm ảnh hưởng đến đời sống sức khỏe con người, làm gia tăng tệ nạn và các loại tội phạm khác do đó cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lý Văn C không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lý Văn C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã, tuy bị cáo không nói nhưng vẫn đồng ý với các tài liệu do Cơ quan điều tra thu thập được bằng cách gật đầu. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, bị cáo không biết chữ nên hiểu biết pháp luật có phần hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Người bào chữa đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt. Xét thấy bị cáo C là đối tượng nghiện đã nhiều năm, quá trình điều tra khi được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị cáo không chấp hành nghiêm chỉnh mà bỏ trốn thể hiện thái độ coi thường pháp luật, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung do vậy chấp nhận đề nghị về phần hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân huyện U và không chấp nhận đề nghị về phần hình phạt của người bào chữa.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập thấp, không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: 0,24 gam Heroine còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ. 01 mảnh nilon màu xanh là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định các Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Các đối tượng, hành vi liên quan đến vụ án:

- Về nguồn gốc số Heroine, Lý Văn C khai nhờ 01 người đàn ông dân tộc Thái không rõ nhân thân lai lịch tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên mua hộ. Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

- Đối với Vàng A P là người chở Lý Văn C đi mua Heroine. Quá trình điều tra xác định, P không biết C tàng trữ trái pháp chất ma túy nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lý Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lý Văn C: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Bị cáo được trừ 03 ngày tạm giữ (từ ngày 06/9/2020 đến ngày 09/9/2020) còn phải chấp hành 01 năm 02 tháng 27 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2021.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lý Văn C.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) bì thư làm bằng phong bì thư của Công an huyện U, tỉnh Lai Châu bên trong đựng 0,24 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu xanh. Vật chứng được niêm phong theo đúng quy định.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng hồi 09 giờ 20 phút, ngày 17/01/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U và Chi cục Thi hành án dân sự huyện U, tỉnh Lai Châu).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/6/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lý Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 50/2022/HS-ST

Số hiệu:50/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;