Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂNQUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 49/2021/HSST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2021/HSST ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST- HS ngày 22/02/2021 đối với các bị cáo:

Nguyễn Văn D, sinh năm 1995, tại Hà Giang; Nơi ĐKHKTT: Bản L, xã Y, huyện B, tỉnh Hà Giang;Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Nguyễn Văn T; Con bà: Nông Thị Đ; Tiền án tiền sự: Không;Danh bản, chỉ bản số 614 do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Cầu Giấy lậpngày 15/11/2020. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/11/2020. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị Kim D – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ45 phút ngày 05 tháng 11 năm 2020, Tổ công tác Công an phường Dịch Vọng Hậu, Công an quận Cầu Giấy đang làm nhiệm vụ tại trước cổng Nhà máy nước Mai Dịch số nhà 01 Phạm Hùng, quận Cầu Giấy, Hà Nội phát hiện Nguyễn Văn D có biểu hiện nghi vấn nên đã kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện thu giữ trong túi áo khoác bên phải của D đang mặc có 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, D khai nhận là ma túy Heroine mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ, niêm phong tang vật, đưa D về trụ sở để làm rõ.

Kết luận giám định số 9960/KLGĐ-PC09 ngày 11/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội, kết luận:Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu vàng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,153 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D khai nhận: Ngày 01/11/2020, D đi xe khách từ Hà Giang về bến xe Mỹ Đình – Hà Nội. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên D đi xe ôm đến Bãi rác Thành Công để mua ma túy sử dụng. Tại đây, D mua được của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) 01 gói giấy vàng bên trong chứa Heroine với giá 200.000 đồng. Mua xong, D cất vào trong túi áo khoác bên phải rồi đi xe ôm về trước cổng Nhà máy nước Mai Dịch tìm chỗ sử dụng thì bị tổ công tác công an phường Dịch Vọng Hậu bắt quả tang như đã nêu trên.

Xét nghiệm nước tiểu của Nguyễn Văn D cho kết quả dương tính với que thử ma túy.

Lời khai của Nguyễn Văn D phù hợp với lời khai của nhân chứng, tang vật thu giữ và các liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho D ở khu vực Bãi rác Thành Công, quận Đống Đa, Hà Nội do D không biết nhân thân lai lịch cụ thể ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy không có căn cứ để điều tra xử lý.

Cáo trạng số 45/CT - VKSCG ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Văn D, xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng tù. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về tang vật áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong chứa ma túy bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Văn D;

Về dân sự: Không.

Luật sư trợ giúp pháp lý trình bày bản bào chữa cho bị cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thiếu hiểu biết về pháp luật nên mới dẫn đến hành vi phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thành khẩn nhận tội và ăn năn hối cải, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xem xét cho bị cáo hưởng hình phạt nhẹ nhất. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Văn D trình bày lời nói sau cùng: bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn hối hận và mong muốn được sự khoan hồng để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ45 phút ngày 05 tháng 11 năm 2020, tại trước cổng Nhà máy nước Mai Dịch số 01 Phạm Hùng, quận Cầu Giấy, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Dịch Vọng Hậu - Công an quận Cầu Giấy phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,153 gam ma túy Heroine mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội.

[3] Nhận xét về nhân thân và lượng hình đối với bị cáo: Tính chất hành vi phạm tội thể hiện bị cáo là một người đã trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân và cộng đồng, mà lại có hành vi vi phạm có liên quan đến ma túy nên Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa tội phạm và giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần này là lần đầu nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về tang vật: Áp dụng Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong chứa ma túy bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Văn D;

[5] Về dân sự: Không [6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 của Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt:Bị cáo Nguyễn Văn D 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/11/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong chứa ma túy bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Văn D;

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 95/GN/THA-CA ngày 04/02/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)

3. Về dân sự: Không.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2021/HSST

Số hiệu:49/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;