TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/HSST-QĐ ngày 15 tháng 6 năm 2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 10/2021/TB-TA ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thái A (Không có tên gọi khác), sinh ngày 30/12/1991, tại tỉnh Tiền Giang; Giới tính: Nam; CMND số: 312089959; Chỗ ở hiện nay: Ấp M, xã N, huyện X, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn A1, sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị A2, sinh năm 1970; Anh, chị em ruột: 02 người, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Vợ: Đồng Ngọc A3, sinh năm 1997 (đã ly hôn); Con: Nguyễn Phương A4, sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
- Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/3/2021, tạm giam từ ngày 15/3/2021 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* N gười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Nguyễn Thanh B – sinh năm 1980 (vắng mặt); D trú: Ấp M1, xã N, huyện X, tỉnh Tiền Giang.
2/ Trần Thị C – sinh năm 1952 (vắng mặt);
Địa chỉ: Khu phố M2, Phường N1, thành phố Y, tỉnh Tiền Giang.
3/ Đặng Thanh Sĩ D – sinh năm 1994 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp M3, xã N2, huyện Y1, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 23 giờ 20 phút 12/3/2021, tại ấp M4, xã N, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Chợ Gạo kết hợp Công an xã N tiến hành kiểm tra, bắt quả tang bị cáo A đang cất giấu 01 bịch nylon bên trong chứa tinh thể trong suốt nghi là ma túy.
Theo kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 14/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:
+ Mẫu tinh thể trong suốt trong 01 (một) gói ny lon màu trắng được hàn kín, để trong gói màu trắng dạng bì thư được niêm phong có các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Thái A, Huỳnh Tấn Đạt, Ngô Thành Khánh Duy, Võ Tuấn Kiệt gửi giám định đều là ma túy có khối lượng 0,2349gram, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Thái A khai nhận: Vào khoảng 23 giờ ngày 12/3/2021, Ngô Vũ Hoài E, sinh năm 1994, trú tại ấp M5, xã N, huyện X, tỉnh Tiền Giang đưa cho A số tiền 200.000 đồng để đi mua ma túy về sử dụng chung. Bị cáo A điều khiển xe mô tô biển số 63F4-9865 đến địa bàn thành phố Mỹ Tho mua 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng của một người phụ nữ không rõ họ tên địa chỉ. Sau khi nhận được ma túy, bị cáo A cầm bịch ma túy bên tay trái và điều khiển xe về hướng Chợ Gạo, đến đoạn thuộc ấp M4, xã N, huyện X, tỉnh Tiền Giang thì bị cáo A phát hiện lực lượng Công an kiểm tra, do sợ bị bắt nên bị cáo A buông tay ra cho bịch ma túy rớt xuống đất nhưng đã bị lực lượng Công an phát hiện, bị cáo A thừa nhận đó là ma túy của bị cáo vừa bỏ xuống đất, mục đích bị cáo A mua ma túy là để sử dụng cùng với E.
* Vật chứng trong vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tạm giữ:
+ 01 (một) gói niêm phong vụ số 50 niêm phong mẫu vật kèm theo kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 14/3/2021 của Phòng kỹ thuật thình sự Công an tỉnh Tiền Giang có chữ ký in họ tên của Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên); Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định) và chữ ký ghi họ tên Võ Tuấn Kiệt (bên nhận).
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO. Đây là điện thoại của bị cáo, không có sử dụng liên lạc mua ma túy.
+ 01 (một) xe mô tô biển số 63F4-9865, quá trình điều tra xác định xe mô tô 63F4- 9865 do Trần Thị C đứng tên sở hữu và bà C đã cho anh Nguyễn Thanh B sử dụng nhưng chưa sang tên. Sau đó, anh B cho anh Đặng Thanh Sĩ D mượn để sử dụng nhưng Sĩ D lại đưa xe cho Nguyễn Thái A mượn. Đến ngày 12/3/2021, bị cáo A sử đụng xe nêu trên để đi mua ma túy sử dụng thì Sĩ D không biết. Anh Nguyễn Thanh B có đơn xin nhận lại xe nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 63F4-9865 cho anh B.
Đối với đối tượng tên Ngô Vũ Hoài E đã đưa tiền cho bị cáo A đi mua ma túy về sử dụng nhưng hiện tại Phong bỏ địa phương đi vắng và đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không tiến hành xác minh làm rõ được. Khi nào làm việc được nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.
Theo cáo trạng số 42/CT-VKSCG ngày 24 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố bị cáo Nguyễn Thái A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên tòa: Bị cáo A khai nhận vào khoảng 23 giờ ngày 12/3/2021, bị cáo đã chạy xe đến khu vực thành phố Mỹ Tho để mua ma túy về sử dụng cùng với Ngô Vũ Hoài E, số tiền 200.000 dùng mua ma túy là do E đưa, bị cáo không có liên lạc với người bán ma túy trước, bị cáo chỉ theo lời của Phong là đến địa điểm ngay đèn xanh đèn đỏ ở Quốc lộ 50 sẽ có người bán ma túy cho bị cáo. Sau khi mua xong ma túy thì về đến Chợ Gạo bị cáo đã bị Công an kiểm tra nên bị cáo đã ném bỏ ma túy xuống đất, gói ma túy mà Công an thu giữ tại hiện trường là của bị cáo ném bỏ.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo A từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định, đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu OPPO.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Gạo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám nghiệm hiện trường; Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang, phù hợp với lời khai người làm chứng, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ 20 phút tại ấp M4, xã N, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang bị cáo A có hành vi cất giấu 01 bịch ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,2349 gram nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi tàng trữ chất ma túy nêu trên của bị cáo A đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố là có căn cứ.
[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo A đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ma túy đã và đang gây tác hại xấu cho sức khỏe của người sử dụng, làm suy thoái phẩm giá con người, làm khánh kiệt về kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình và chính ma túy là nguyên nhân làm gia tăng nhiều loại tội phạm. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo A đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy những vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng gồm: 01 (một) gói niêm phong vụ số 50 niêm phong mẫu vật kèm theo kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 14/3/2021 của Phòng kỹ thuật thình sự Công an tỉnh Tiền Giang có chữ ký in họ tên của Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên); Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định) và chữ ký ghi họ tên Võ Tuấn Kiệt (bên nhận). Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO của bị cáo A, quá trình điều tra xác định bị cáo không sử dụng điện thoại để liên lạc mua ma túy, nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe mô tô biển số 63F4-9865, quá trình điều tra xác định xe mô tô 63F4- 9865 do Trần Thị C đứng tên sở hữu và bà C đã cho anh Nguyễn Thanh B sử dụng nhưng chưa sang tên. Sau đó, anh B cho anh Đặng Thanh Sĩ D mượn để sử dụng nhưng Sĩ D lại đưa xe cho Nguyễn Thái A làm phương tiện đi lại. Đến ngày 12/3/2021, bị cáo A sử đụng xe nêu trên để đi mua ma túy sử dụng thì Sĩ D không biết. Anh Nguyễn Thanh B có đơn xin nhận lại xe nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 63F4-9865 cho anh B là đúng quy định pháp luật.
[6] Đối với đối tượng tên Ngô Vũ Hoài E đã đưa tiền cho bị cáo A đi mua ma túy về sử dụng nhưng hiện tại Phong bỏ địa phương đi vắng và đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo A không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra Công tiến hành xác minh làm rõ được. Khi nào Cơ quan điều tra làm việc được nếu có căn cứ sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.
[7] Xét đề nghị truy tố của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo A là có căn cứ và phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái A 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 12/3/2021.
2/ Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy (một) gói niêm phong vụ số 50 niêm phong mẫu vật kèm theo kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 14/3/2021 của Phòng kỹ thuật thình sự Công an tỉnh Tiền Giang có chữ ký in họ tên của Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên); Nguyễn Quốc Phong (Trợ lý giám định) và chữ ký ghi họ tên Võ Tuấn Kiệt (bên nhận).
Trả lại cho bị cáo A 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2021)
3/ Về án phí: Bị cáo A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4/ Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà C, anh B, anh Sĩ D được quyền kháng cáo liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2021/HS-ST
Số hiệu: | 49/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về