TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 47/2021/HSST NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:
Hà T (Tên gọi khác: Tính Lùn); sinh năm 1982 tại Đắk Lắk, nơi cư trú: Tổ 4, thị trấn Buôn Trấp, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Đầu bếp; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Văn M (đã chết) và bà Phan Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý;
Bản án số 02/2018/HSST ngày 02/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xét xử, tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Thi hành án tại Trại giam Đăk Tân - Bộ Công an. Ngày 18/01/2020, chấp hành xong hình phạt tù.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 22/2012/HSST ngày 23/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xét xử, tuyên phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Thi hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Ngày 20/10/2012, chấp hành xong hình phạt tù (lần kết án này, Hà T đã được xóa án tích).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/12/2020 đến ngày 19/12/2020, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai.
Có mặt.
Người làm chứng:
- Anh Nguyễn Phong C, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn 4, xã B, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.
- Anh Lê Ngọc K, sinh năm 1986; địa chỉ: B, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.
Người chứng kiến:
- Ông Phan Tấn M, sinh năm 1957; địa chỉ: Tổ 5, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hà T là người có sử dụng chất ma túy. Ngày 09/12/2020, Tính cùng với Nguyễn Phong C và Lê Ngọc K đi từ tỉnh Đắk Lắk đến thành phố P tìm việc làm. Khoảng 20 giờ cùng ngày, H, Phong và C đến khách sạn H tại số 113 đường T thuộc Tổ 5, phường T, thành phố P gặp chị Phan Nguyễn H là chủ khách sạn, thuê phòng để ngủ qua đêm, được chị Thương dẫn lên phòng 107. Khoảng 20 giờ 30 phút, khi C và K đang ngủ thì H nảy sinh ý định dụng ma túy, nên thông qua các mối quan hệ, H xin được số điện thoại của đối tượng Hùng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy. H gọi điện thoại cho Hùng hỏi mua ma túy đá và dụng cụ sử dụng ma túy và được Hùng đồng ý bán. Đến khoảng 21 giờ, H đi ra đường T, đoạn trước khách sạn gặp Hùng nhận 01 gói ma túy đá và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ) do Hùng giao với giá 1.000.000 đồng. H giấu ma túy và dụng cụ sử dụng vào trong áo mang lên phòng lấy một phần ma túy cho vào nỏ để sử dụng, phần ma túy còn lại H cất vào túi quần. Sử dụng chưa hết ma túy trong nỏ, H vào nhà tắm đi vệ sinh. Lúc này, C và K thức dậy thấy có ma túy để trên bàn nên đã tự ý sử dụng. Thấy C và K đã sử dụng hết ma túy trong nỏ, H cầm nỏ vào nhà tắm rửa sạch, đợi lúc C và K đi ngủ, H lấy ma túy trong túi quần và nỏ cho vào hộp giấy để trên bàn với mục đích để sau đó sử dụng. Đến 08 giờ ngày 10/12/2020, lực lượng C sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường T kiểm tra phòng 107 khách sạn H, phát hiện trong hộp giấy để trên bàn có 01 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể và 01 bình thủy tinh trên đầu có gắn ống thủy tinh hình móc câu, H khai nhận là ma túy đá của H cất giấu để sử dụng. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H và thu giữ vật chứng gồm: 01 hộp giấy bên trong chứa 01 bình thủy tinh trên đầu có gắn ống thủy tinh hình móc câu và 01 gói nilon chứa chất màu trắng dạng tinh thể (được niêm phong theo quy định); 01 điện thoại đi động Iphone kèm thẻ sim số và 500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Bút lục: 37; 38-39; 40; 46-47; 49-59; 60-69).
Tại Kết luận giám định số 879/KLGĐ ngày 17/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong một gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3196 gam” (Bút lục: 41; 44).
Chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong bì công văn ghi số 879/PC09 ngày 17/12/2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai và 01 hộp giấy bên trong chứa 01 bình thủy tinh trên đầu có gắn ống thủy tinh hình móc câu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chuyển theo vụ án để xử lý (Bút lục: 40; 44; 80-81).
Chiếc điện thoại đi động Iphone kèm sim số, H khai đã sử dụng để liên lạc với đối tượng Hùng mua ma túy; số tiền 500.000 đồng là tài sản của H không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chuyển theo vụ án để xử lý (Bút lục số: 38-39; 80-81).
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hà T đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm”.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và truy tố vụ án, bị can đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên bị can có tình tiết giảm nhẹ đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo”.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về nội dung bản Bản cáo trạng và mức hình phạt cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị.
Tại Bản cáo trạng số: 53/CT-VKS ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Hà T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hà T và đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình sự:
Tuyên bố bị cáo Hà T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h Điều 52; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Hà T với mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, tính từ ngày bị tạm giữ 10/12/2020.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì dán kín ghi số 879/PC09 ngày 17/12/2020, bên ngoài có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia lai và chữ ký giáp lai của Nguyễn Đại Hải, Võ Đình Tài, Bùi Sỹ Thà, một hộp giấy niêm phong có chữ ký của các ông Nguyễn Đại Hải, Nguyễn Phong C, Lê Ngọc K; tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại Iphone; tiêu hủy chiêc sim nằm trong điện thoại.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:
Bị cáo hứa cố gắng cải tạo tốt để sớm được trở về chăm sóc mẹ đang đau ốm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa,bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại gì. Do đó các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hà T đã có hành vi thực hiện phạm tội như sau:
Ngày 09/12/2020, H, K, C từ tỉnh Đăk Lăk đến Khách sạn H, tại số 113 đường T, phường T, thành phố P, Gia Lai thuê phòng số 107 để ngủ qua đêm. Tại đây H tìm mua ma túy để sử dụng và liên lạc với đối tượng tên Hùng mang ma túy và dụng cụ sử dụng đến giao tại Khách sạn H. Nhận được ma túy, bị cáo mang về phòng, lúc này C và K đã ngủ, H đem ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo để trên bàn và đi vào nhà vệ sinh. C và K thức dậy thấy có ma túy nên cùng nhau sử dụng.
Sau khi C, K sử dụng xong và đi ngủ, H mang dụng cụ sử dụng ma túy đi rửa và gói phần ma túy còn lại đem cất giấu và gói dụng cụ sử dụng vào hộp giấy để trên bàn. Khoảng 08 giờ ngày 10/12/2020 lực lượng Cảnh sát điều ta tội phạm về ma túy của Công an thành phố P cùng các cơ quan chức năng trên địa bàn tại địa phương đã phát hiện, bắt và lập biên bản thu giữ H cùng vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 879/KLGĐ ngày 17/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai xác định: Chất màu trắng dạng tinh thể trong gói nilon thu giữ trong người của H là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,3196 gam.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có nhận thức tốt, nên biết được điều đó, nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện tội phạm, mặc dù đã từng bị kết án về tội này.
Trước đó, tại Bản án số 02/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 bị cáo H đã bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Lăk xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”chưa xóa án tích, vừa chấp hành xong hình phạt vào ngày 17/01/2020 thì ngày 10/12/2020 bị cáo lại tiếp tục phạm tội và năm 2012 đã bị kết án tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Từ đó cho thấy bị cáo không thật sự ăn năn hối cải, không chịu học tập, cải tạo nâng cao nhận thức để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Hà T ra trước Tòa án nhân dân thành phố P để xét xử về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng: Tái phạm quy định tại điểm h Điều 52, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo mức án tù từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc là thỏa đáng.
[4] Về vật chứng vụ án:
Căn cứ 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì dán kín ghi số 879/PC09 ngày 17/12/2020, bên ngoài có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia lai và chữ ký giáp lai của Nguyễn Đại Hải, Võ Đình Tài, Bùi Sỹ Thà, một hộp giấy niêm phong có chữ ký của các ông Nguyễn Đại Hải, Nguyễn Phong C, Lê Ngọc K, do đây là công cụ, phương tiện phạm tội cấm lưu hành;
Chiếc điện thoại Iphone là phương tiện bị cáo dùng thực hiện tội phạm nên tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước;
Tịch thu tiêu hủy chiêc sim nằm trong điện thoại của bị cáo H, vì không có giá trị sử dụng.
Trả lại cho bị cáo Hà T số tiền 500.000đ không liên quan trong vụ án.
[7] Về án phí: Bị cáo Hà T Tú phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Hà T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Hà T 02 năm 06 tháng (Hai năm sáu tháng ) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 10/12/2020.
Về vật chứng:
Căn cứ 106 của Bộ luật tố tụng hình năm 2015, Tịch thu và tiêu hủy:
1. 01 (một) phong bì dán kín ghi số 879/PC09 ngày 17/12/2020, bên ngoài có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia lai và chữ ký giáp lai của Nguyễn Đại Hải, Võ Đình Tài, Bùi Sỹ Thà, - 01 (một) hộp giấy niêm phong có chữ ký của các ông Nguyễn Đại Hải, Nguyễn Phong C, Lê Ngọc K, - 01 (một) Chiếc sim nằm trong điện thoại của bị cáo H.
2. Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại Iphone (Tình trạng, đặc điểm, số lượng như trong biên bản bàn giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06 tháng 4 năm 2021 giữa Cơ quan Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh Gia Lai).
Trả lại cho bị cáo Hà T số tiền 500.000đ không liên quan trong vụ án.
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Hà T phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 47/2021/HSST
Số hiệu: | 47/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về