Bản án 46/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 15/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2023 Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2023/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2023/QĐXXST-HS ngày 01/8/2023 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: nam; Sinh năm: 1968, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: tổ 7, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Công Ư (đã chết) và con bà Bùi Thị P (đã chết); vợ: Đinh Thị M (sinh năm 1966) và có 02 con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2023 tại N tạm giữ, Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đinh Thị M, sinh năm 1966, địa chỉ: Tổ 7, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu. Nghề nghiệp: Lao động tự do (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 13/4/2023, Nguyễn Văn C đang đỗ xe ô tô BKS 25A – xxxxx để bắt khách đi taxi tại khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, thuộc tổ 27, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì gặp người đàn ông tên N, không rõ lai lịch. Sau đó, N đưa cho C 400.000 đồng nhờ mua hộ ma túy, C đồng ý. C đi xe ô tô trên đến nhà anh Nguyễn Văn C1, sinh năm 1977, tại Bản M, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu để mua Heroine. Đến nơi, N ngồi trên xe ô tô còn C đi vào trong nhà C1 để mua Heroine. Qua trao đổi, C mua được của C1 02 gói Heroine với giá 400.000 đồng (02 gói Heroine được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu vàng, phía ngoài cùng được gói bằng 01 mảnh giấy ghi xổ số). Mua được Heroine C cất giấu số heroine vừa mua được ở trong hốc để đồ giữa ghế lái và ghế phụ rồi điều khiển xe ô tô chở N đi tìm chỗ sử dụng. Khi đi đến bãi cát thuộc tổ 23, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, C và N vừa xuống xe ô tô thì gặp tổ công tác của Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, phòng PC 44 – Công an tỉnh Lai Châu và Công an phường Tân Phong, lợi dụng sơ hở N bỏ chạy thoát, còn C tự giác lấy từ trong hốc để đồ ở giữa ghế lái và ghế phụ của xe ô tô ra 01 gói bên ngoài bằng 01 mảnh giấy ghi xổ số, bên trong có 02 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu vàng, bên trong 02 gói đều chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận 02 gói này là Heroine, C mua hộ người đàn ông đã bỏ chạy, mục đích là tàng trữ để sử dụng.

Theo Kết luận giám định số 24/KLGĐ ngày 13/4/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an thành phố Lai Châu kết luận 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn C có khối lượng tổng là 0,12 gam ( gói thứ nhất 0,05 gam, gói thứ hai 0,07 gam). Theo Kết luận giám định số 453/KL- KTHS ngày 16/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Theo lời khai của Nguyễn Văn C, nguồn gốc số 0,12 gam Heroine bị thu giữ là C mua Nguyễn Văn C1. Kết quả điều tra C1 không thừa nhận bán ma túy cho C, ngoài lời khai của C không có tài liệu, chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

C khai nhận 0,12 gam heroine bị thu giữ là C mua hộ một người đàn ông tên là N, người đã chạy thoát khi Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra, nhưng C không rõ lai lịch của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ đối với đối tượng này.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô nhãn hiệu HyunDai Grand i10, màu trắng, BKS 25A – xxxxx là tài sản C của bị cáo C với vợ là bà Đinh Thị M, bà M không biết bị cáo sử dụng chiếc ô tô vào việc phạm tội nên không đồng phạm với bị cáo.

Bản cáo trạng số 36/CT - VKSTP ngày 11/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 12 đến 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 13/4/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh giấy (loại ghi xổ số); 02 mảnh nilon màu vàng; Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Grand i10 màu trắng, biển kiểm soát: 25A-xxxxx. Số máy G4LAJM82739, số khung S1DAJN017085 kèm theo chứng nhận đăng ký xe ô tô số 005541 của Nguyễn Văn C, áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự đối với để trả lại ½ giá trị chiếc xe cho bà Đinh Thị M.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn C không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Lời nói sau cùng: bị cáo Nguyễn Văn C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở để khẳng định:

Vào hồi 17 giờ 15 phút ngày 13/4/2023 tại tổ 23, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu Nguyễn Văn C đang tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroine, với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an thành phố Lai Châu phối hợp với Phòng PC04- Công an tỉnh Lai Châu, công an phường Tân Phong yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bị cáo Nguyễn Văn C là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của N nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều khoản này quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm… c, Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, …hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo C có nhân thân tốt.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo có bố là ông Nguyễn Công Ư được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,12 gam Heroine đã gửi đi giám định hết nên Hội đồng xét xử không xem xét; còn lại 01 mảnh giấy (loại ghi xổ số); 02 mảnh nilon màu vàng là vật chứng bị cáo dùng để gói ma túy và là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Grand i10 màu trắng, biển kiểm soát: 25A-xxxxx. Số máy G4LAJM82739, số khung S1DAJN017085 kèm giấy đăng ký xe là tài sản C của bị cáo và vợ là bà Đinh Thị M, chiếc xe này vợ chồng bị cáo mua để chạy taxi, bà M không biết, không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng chiếc xe này vào mục đích phạm tội nên căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu nộp ½ giá trị của chiếc ô tô trên vào ngân sách Nhà nước, ½ giá trị chiếc xe trả lại cho bà Đinh Thị M.

[6] Quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng pháp luật, nên cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135 khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2023.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh giấy (loại ghi xổ số); 02 mảnh nilon màu vàng;

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Grand i10 màu trắng, biển kiểm soát: 25A-xxxxx. Số máy G4LAJM82739, số khung S1DAJN017085 kèm theo chứng nhận đăng ký xe ô tô số 005541 của Nguyễn Văn C, ½ giá trị chiếc xe trả lại cho bà Đinh Thị M.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 50 phút ngày 12/7/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;