Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TU, TỈNH LC

BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TU, tỉnh LC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2022/TLST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Q; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 11/10/20XX tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản Đ, xã HN, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn N, sinh năm 19xx và bà: Lò Thị P, sinh năm 19xx; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 13 giờ 00 phút ngày 12/01/2022, tạm giam từ ngày 21/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TU, tỉnh LC. (Có mặt).

2. Họ và tên: Lò Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 05/5/20XX tại huyện TU, tỉnh LC;

Nơi cư trú: Bản Đ, xã HN, huyện TU, tỉnh LC; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn Đ, sinh năm 19xx và bà: Vàng Thị C, sinh năm 19xx; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

1 Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ hồi 13 giờ 00 phút ngày 12/01/2022, tạm giam từ ngày 21/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TU, tỉnh LC. (Có mặt).

- Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Nguyễn Thị N – Là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh LC (Có mặt).

- Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lò Văn P, sinh năm 19XX, địa chỉ: Bản Đ, xã HN, huyện TU, tỉnh LC. (Có mặt).

2. Anh Phạm Văn D, sinh năm 19XX, địa chỉ: Khu A, thị trấn TU, huyện TU, tỉnh LC. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn Q và Lò Văn H là những người nghiện chất ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 12/01/2022, Lò Văn Q sang nhà Lò Văn Q, sinh năm 1999 (trú tại bản Đ, xã HN, huyện TU ) mượn xe mô tô, mục đích đi tìm mua Heroine để sử dụng nhưng không nói cho anh Q biết. Mượn được xe mô tô, Q điều khiển sang nhà Lò Văn H rủ H đi chơi. Lò Văn Q điều khiển xe mô tô chở Lò Văn H đến quán điện thoại di động của anh Phạm Văn D. Tại đây, Q dùng chiếc điện thoại động VIVO Y12S màu xanh D của mình cầm cố cho anh D lấy số tiền 1.000.000 đồng. Có tiền Q rủ H đi lên bản Noong Thăng xã Phúc Than, huyện TU, tỉnh LC mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Q nói với H: Nếu mua được Heroine, H sẽ cầm hộ Q mang về thì Q sẽ cho H cùng sử dụng, H nhất trí. Tại bản Noong Thăng, Lò Văn Q, Lò Văn H gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông không rõ lai lịch. Qua trao đổi, Lò Văn Q lấy tiền cầm cố điện thoại trực tiếp mua của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 800.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, Q và H cấu lấy một ít cùng nhau sử dụng bằng hình thức hít. Số Heroine còn lại, Q gói lại như cũ rồi đưa cho H. Nhận gói Heroine từ Lò Văn Q, Lò Văn H cầm giữ trong lòng bàn tay phải và ngồi sau xe do Q điều khiển quay về. Đến 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi Lò Văn Q và Lò Văn H đến bản Cẩm Trung 1, xã Mường Than, huyện TU thì bị Công an huyện TU yêu cầu dừng xe kiểm tra. Thấy lực lượng công an, Lò Văn H đã thả gói Heroine đang cầm trong lòng bàn tay phải xuống đất thì bị phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của Lò Văn Q và Lò Văn H là 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng. Ngoài ra, còn thu giữ của Lò Văn Q 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave α, biển kiểm soát 25T1-xxx.50 và số tiền 200.000 đồng.

Ngày 12/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã tiến hành trưng cầu người giám định Tư pháp để mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn Q, Lò Văn H gửi giám định. Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 22/LKGĐ ngày 12/01/2022 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn Q, Lò Văn H có khối lượng là: 0,89 gam. Tại bản Kết luận giám định số 130/GĐ-KTHS ngày 16/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LC kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine. Bản Kết luận giám định số 131/KLGĐ-TL ngày 16/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LC kết luận: 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) có mã số hiệu: RH 16143135 gửi giám định là tiền thật.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ tại quán sửa điện thoại của anh Phạm Văn D 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D (đã qua sử dụng) của Lò Văn Q.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE, màu trắng – đen biển kiểm soát 25T1-xxx.50 thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn Q. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của ông Lò Văn Ph, sinh năm 1975, trú tại bản Đ, xã HN, huyện TU, tỉnh LC. Khi cho Q mượn xe, Lò Văn Q (con trai ông Ph) và ông Lò Văn Ph không biết việc Q sử dụng xe làm phương tiện đi mua Heroine về sử dụng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Lò Văn Ph.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,77 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; số tiền 200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D (đã qua sử dụng) hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC.

Bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 07/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU tỉnh LC truy tố các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, tỉnh LC giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn Q từ 20 đến 26 tháng tù; xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 12/01/2022.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Văn D không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không phải giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,77 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; trả lại cho bị cáo Lò Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D (đã qua sử dụng) và số tiền 200.000 đồng.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị miễn cho các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng và án phí đối với bị cáo. Tuy nhiên, các bị cáo còn trẻ, rời ghế nhà trường chưa được định hướng nghề nghiệp dễ bị cám dỗ dẫn đến nghiện chất ma túy; xét về mục đích các bị cáo mua ma túy về để sử dụng cho bản thân; thực hiện tội phạm với tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo H là người giúp sức với vai trò không đáng kể; các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nguyên nhân phạm tội xuất phát từ việc hiểu biết pháp luật còn hạn chế; bản thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và đều bị cáo ông nội là người có công với cách mạng nên Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát và nhất trí với ý kiến của người bào chữa, không bổ sung lời bào chữa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm Q, trình H, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng và đầy đủ các Q và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Trưa ngày 12/01/2022, Lò Văn Q dùng chiếc điện thoại động nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D của mình cầm cố cho anh Phạm Văn D (địa chỉ: Khu 1, thị trấn TU, huyện TU, tỉnh LC) lấy số tiền 1.000.000 đồng. Có tiền, Q rủ H đi lên bản Noong Thăng xã Phúc Than, huyện TU, tỉnh LC mục đích tìm mua Heroine để cùng nhau sử dụng.Tại bản Noong Thăng, Lò Văn Q trực tiếp bỏ tiền của mình ra để mua 01 gói Heroine với giá 800.000 đồng của một người đàn ông không quen biết. Mua được Heroine, Q và H cấu một ít ra sử dụng. Số Heroine còn lại, Q đưa cho H cầm, mục đích mang về để cùng nhau sử dụng tiếp. Đến 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi Q và H về đến bản Cẩm Trung 1, xã Mường Than, huyện TU thì bị Công an huyện TU bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ của Lò Văn Q, Lò Văn H là 01 gói Heroine có khối lượng 0,89 gam. Ngày 20/01/2022, Lò Văn Q, Lò Văn H bị khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H là những người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi tàng trữ trái phép 0,89 gam Heroine, mục đích để cùng nhau sử dụng của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TU truy tố các bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước ta đối với các chất ma túy và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Xét về vai trò đồng phạm trong vụ án thấy rằng, đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng thống nhất ý chí, mục đích tìm mua ma túy để cùng nhau sử dụng. Bị cáo Lò Văn Q là người khởi xướng hành vi phạm tội, là người thực hành tính cực như chuẩn bị phương tiện, chuẩn bị tiền và trực tiếp trao đổi mua Heroine nên bị cáo Q phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với bị cáo H. Bị cáo Lò Văn H giữ vai trò là người giúp sức, trực tiếp tàng trữ Heroine nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H đều sinh ra tại huyện TU; các bị cáo còn trẻ, chưa có vợ con, sống phụ thuộc gia đình. Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tuy nhiên các bị cáo đã không tu dưỡng, rèn luyện bản thân, chịu khó làm ăn, lao động sản xuất mà mắc tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Để có ma túy sử dụng các bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc; bị cáo Lò Văn H có ông nội là Lò Văn Ngắm, bị cáo Lò Văn Q có ông nội là Lò Văn Tời được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vai trò đồng phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, cần thiết phải có mức án tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo khó khăn, gia đình đều thuộc hộ cận nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Văn D không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không phải giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng còn lại của vụ án là 0,77 gam Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nilon màu hồng; 01vỏ bì niêm phong ban đầu là những vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D, IMEI1: 864415056565935, IMEI2: 864415056565927, mặt trước có vết nứt kính cường lực, mặt sau có chữ VIVO và số tiền 200.000 đồng bị cáo Lò Văn Q là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE, màu trắng – đen biển kiểm soát 25T1-xxx.50 thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn Q. Căn cứ đơn đề nghị của ông Lò Văn Ph với nội dung chiếc xe mô tô thuộc sở hữu của ông Ph và khi Lò Văn Q mượn xe, anh Lò Văn Q và ông Lò Văn Ph không biết Q dùng làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng. Xét đề nghị của ông Ph là có căn cứ, việc trả lại chiếc xe mô tô không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và thi hành án nên ngày 29/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Lò Văn Ph là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban dân tộc; gia đình các bị cáo thuộc hộ cận nghèo, tại phiên tòa các bị cáo xin miễn án phí. Do đó, Hội đồng xét xử miễn cho mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TU về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với ý kiến của Người bào chữa, đề nghị xét xử các bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy, vụ án có tính chất nghiêm trọng, các bị cáo đã được học hết Trung học phổ thông, hiểu rõ các hành vi liên quan đến ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý cùng thực hiện hành vi phạm tội; các bị cáo đều là người nghiện ma túy; căn cứ vào khối lượng Heroine các bị cáo tàng trữ, vai trò đồng phạm và ý thức, thái độ thực hiện hành vi phạm tội cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ để răn đe, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[10] Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H để đảm bảo thi hành án.

[11] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy, các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H khai mua của những người không rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Lò Văn Q (con trai ông Lò Văn Ph) đã cho Lò Văn Q mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25T1-xxx.50 thuộc sở hữu của ông Lò Văn Ph.

Quá trình điều tra xác định, anh Q và ông Lò Văn Ph không biết việc Q dùng xe mô tô để làm phương tiện đi mua Heroine sử dụng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TU không đề cập xử lý với anh Lò Văn Q và ông Lò Văn Ph là có căn cứ.

Đối với anh Phạm Văn D là người nhận cầm cố chiếc điện thoại của Lò Văn Q với số tiền 1.000.000 đồng và Q dùng tiền đó đi mua Heroine. Quá trình điều tra xác định anh D không biết mục đích của Q cầm cố điện thoại để đi mua Heroine nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Q 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tính từ ngày 12/01/2022.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn H 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tính từ ngày 12/01/2022.

[2] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong đựng 0,77 gam Heroine; 01 phong bì Công an huyện TU bên trong đựng 01 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; Trả lại cho bị cáo Lò Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y12S màu xanh D, IMEI1: 864415056565935, IMEI2: 864415056565927, mặt trước có vết nứt kính cường lực, mặt sau có chữ VIVO và 01 bì niêm phong bên trong đựng số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo như biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 20 tháng 4 năm 2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TU và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TU, tỉnh LC).

[3] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn cho các bị cáo Lò Văn Q, Lò Văn H mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về Q kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có Q lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2022/HS-ST

Số hiệu:45/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;