Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Lê Xuân D, sinh năm 1993 tại xã Y, huyện Y1, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn V, xã Y, huyện Y1 , tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân D và bà Phạm Thị L; có vợ là Phạm Thị H (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 31/7/2021, chuyển tạm giam từ ngày 06/8/2021 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 31/7/2021, tại đoạn đường thuộc địa bàn thôn B, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; Lực lượng Công an huyện Bình Lục phối hợp cùng Công an xã A tuần tra, phát hiện Lê Xuân D đang điều khiển xe mô tô BKS 18D1 - 536.17 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu D dừng xe để kiểm tra. D đã tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy mặt bên ngoài màu trắng, mở ra bên trong mặt giấy có chữ in tiếng nước ngoài, tiếng việt có chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là Heroine vừa mua để sử dụng cho bản thân. Lực lượng Công an đã đưa D về trụ sở Ủy ban nhân dân xã A lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng trong phong bì ký hiệu QT, tạm giữ 01 xe mô tô BKS 18D1 - 536.17.

Quá trình điều tra, Lê Xuân D khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 31/7/2021, Lê Xuân D điều khiển xe mô tô BKS 18D1 - 53617 từ chỗ ở tại thôn V, xã Y, huyện Y1, tỉnh Nam Định đến xã Y, huyện Y1, tỉnh Nam Định để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến đoạn đường thuộc xã Y, huyện Y1, tỉnh Nam Định, D thấy một người đàn ông đang đứng một mình ở ven đường có biểu hiện giống người nghiện ma túy nên D đến gần và hỏi “Để cho em một cái hai trăm” (D hỏi mua 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng) thì người đàn ông đó nói “Đưa tiền đây”. D lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng đưa cho người này, sau khi nhận tiền người đàn ông đó đưa lại cho D 01 gói giấy mặt bên ngoài màu trắng. D biết là Heroine nên không mở ra xem mà cất gói ma túy vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi được một đoạn đường ngắn không xác định được địa điểm cụ thể thì D dừng xe lại lấy một ít Heroine trong gói giấy và sử dụng bằng hình thức hít; số Heroine còn lại D cất trong túi quần phía trước bên phải đang mặc. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa bàn thôn B, xã A, huyện B thì D bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Xuân D tại thôn V, xã Y, huyện Y1, tỉnh Nam Định. Quá trình khám xét không thu giữ được đồ vật, tài sản, tài liệu gì liên quan.

Tại Bản kết luận giám định về ma túy số 1066/GĐKTHS ngày 02/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy mặt bên ngoài màu trắng, mở ra bên trong mặt giấy có chữ in tiếng nước ngoài, tiếng việt, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu QT gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu QT: 0,117 gam”.

Tài liệu điều tra không đủ căn cứ xác định nguồn gốc và đối tượng đã bán Heroine cho Lê Xuân D để xử lý.

Bản cáo trạng số 47/CT-VKS-MT ngày 25/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố bị cáo Lê Xuân D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Xuân D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy vật chứng hoàn trả sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.

[2]Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân D đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 31/7/2021, tại đoạn đường thuộc địa bàn thôn B, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; Lê Xuân D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,117 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Do vậy, hành vi của bị cáo Lê Xuân D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Lê Xuân D khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Xét biên bản xác minh tài sản thấy bị cáo không có tài sản riêng gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

Đối với chiếc xe mô tô BKS 18D1 - 536.17 là tài sản hợp pháp của bà Phạm Thị L (mẹ của D). Ngày 31/7/2021 bà L không biết việc D sử dụng chiếc xe mô tô đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục đã trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho bà L là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với số Heroine hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân D 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/7/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số Heroine hoàn trả sau giám định trong 01 phong bì niêm phong, có số 1066/GĐKTHS (Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Hà Nam ngày 25/8/2021).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Lê Xuân D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2021/HS-ST

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;