Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 45/2020/HS-PT NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 532/HSPT/TLPT-HS ngày 03/12/2019 đối với bị cáo A, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 143/2019/HS-ST, ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

A; sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 52/27 B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 52/27 B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp buôn bán; trình độ học vấn lớp 9/12; con ông E và bà F; Có vợ và 02 con cùng sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; tạm giam từ ngày 31/5/2019 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 31/5/2019, A dự tiệc sinh nhật bạn tại quán bar 89 Tân Sơn Nhì, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây Ethấy trên bàn tiệc có ma túy tổng hợp, dạng viên nén nên tự ý lấy 01 viên để sử dụng. Sau đó E được người thanh niên ngồi kế bên đưa 01 gói nylon có chứa 04 viên ma túy tổng hợp, dạng nén, hình chữ nhật gồm màu nâu, màu hồng và màu xanh rêu, nhờ E giữ dùm. Ecất gói ma túy ấy trong túi xách của mình và khi tan tiệc ra về, E thấy trên bàn có 01 gói nylon chứa 03 viên ma túy tổng hợp, dạng nén hình bông hoa gồm màu xanh rêu, màu hồng và màu xanh, không rõ của ai nên Elấy. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Nguyễn Ngọc Thắng là bạn của E điều khiển xe gắn máy biển số 59M1-577.26 chở Elưu thông đến giao lộ Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận K thì bị tổ tuần tra Công an phường Nguyễn Cư Trinh nghi vấn, yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi xách của E có 1 gói nylon chứa 4 viên ma túy và trong túi quần của E có gói nylon chứa 3 viên ma túy nên tổ tuần tra lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Theo kết luận giám định số 1208/KLGĐ-H ngày 05/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: 01 viên hình chữ nhật màu nâu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3192g, loại Heroin; 01 viên nén hình chữ nhật màu hồng là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,3201g, loại Heroin, Codeine; 02 viên nén hình chữ nhật màu xanh rêu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6115g, loại Codeine; 01 viên nén hình bông hoa màu xanh là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,4442g, loại Codeine; 01 viên nén hình hình bông hoa màu xanh không tìm thấy ma túy; 01 viên nén hình hình bông hoa màu hồng là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,4609g, loại Heroin, Codeine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 143/2019/HSST, ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo A 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2019. Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung vào công quĩ nhà nước.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, tiền án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 04/11/2019, bị cáo A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo khai nhận đã có hành vi cất giữ 1 gói nylon có 4 viên ma túy trong túi xách và cất giữ 1 gói nylon có chứa 3 viên ma túy trong túi quần và trên đường đi đến giao lộ Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận K thì bị công an phát hiện, bắt quả tang như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đã nhận định quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên cấp sơ thẩm áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 04 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình Huy chương chiến sĩ vẻ vang do Chủ tịch nước tặng cho ông E là cha của bị cáo và hai sổ khám sức khỏe hai con của bị cáo với chẩn đoán chậm phát triển. Đây không phải là tình tiết giảm nhẹ được qui định trong Bộ luật hình sự, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 02 năm tù là đã xem xét, chiếu cố đến hoàn cảnh của bị cáo. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để giảm án theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo được.

[4] Ý kiến của Đại diện viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của A, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 143/2019/HSST, ngày 21/10/2019 của Tòa án nhân dân Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: A 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2019.

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn ) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2020/HS-PT

Số hiệu:45/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;