Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/TLST-HS ngày 26/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HS ngày 16/4/2021, đối với các bị cáo:

1. Lê Quang Thanh L, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1990 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố H, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Quang T, sinh năm 1952 và bà Lê Thị T, sinh năm 1954; gia đình có 06 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 05; vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/9/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 18 tháng tù về tội “Tiệu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/02/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/12/2020 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Vũ H, sinh ngày 03 tháng 12 năm 1990 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố M, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Buôn bán; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; con ông Nguyễn Trường C, sinh năm 1962 và bà Dương Ánh H, sinh năm 1966; gia đình có 04 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 03; có vợ là: Nguyễn Quỳnh T và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/12/2020 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 10/12/2020, Lê Quang Thanh L và Nguyễn Vũ H gặp nhau tại quán cà phê Window (thuộc khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà). Tại đây, L rũ H góp tiền mua ma túy và thuê địa điểm để sử dụng thì H đồng ý (mỗi người góp 200.000 đồng). L cầm 400.000 đồng đi vào kiệt 44 đường Trần Hưng Đạo (thuộc khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà) gặp nam thanh niên tên R (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 03 viên ma túy hồng phiến với giá 150.000 đồng. Sau khi có ma túy, L cất giấu tại tay phải của mình rồi quay ra gặp H đang ngồi đợi trên xe taxi trước trường THCS Nguyễn Trãi (thuộc khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà). Cả hai cùng đi xe taxi đến thuê phòng số 10 nhà trọ số 26 đường Hải Triều (thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà). Tại đây, L làm dụng cụ và cùng H sử dụng hết 01 viên, còn 02 viên L để trên bàn trong phòng trọ số 10, đến 09 giờ 15 phút ngày 11/12/2020 thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy nói trên.

Theo Kết luận giám định số 01/KLGĐ ngày 15/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 02 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY được niêm phong trong phong bì ký hiệu M có khối lượng 0,2058 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 37/CT-VKSĐH ngày 26/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà đã truy tố các bị cáo Lê Quang Thanh L và Nguyễn Vũ H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Lê Quang Thanh L: từ 14 (mười bốn) đến 15 (mười lăm) tháng tù.

- Bị cáo Nguyễn Vũ H: 12 (mười hai) đến 13 (mười ba) tháng tù.

Về vật chứng thu giữ: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 05xxxx có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và 01 chai nhựa trong, cao khoảng 22cm. Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng.

Các bị cáo trình bày lời nói sau cùng:

- Bị cáo Lê Quang Thanh L: Bị cáo đã biết sai lầm của mình, mong Hội đồng xét xử có hình phạt nhẹ để bị cáo sớm trở về với gia đình.

- Bị cáo Nguyễn Vũ H: Quá trình bị tạm giam, bị cáo đã ăn năn, hối hận, mong Hội đồng xét xử có hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:

Với mục đích mua ma túy về để cùng nhau sử dụng, nên khoảng 18 giờ ngày 10/12/2020 Lê Quang Thanh L đã rủ Nguyễn Vũ H góp tiền mua ma túy và tìm địa điểm để sử dụng. H đồng ý và đưa cho L 200.000 đồng. L cầm tiền và đi vào kiệt 44 đường Trần Hưng Đạo (thuộc khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà) gặp nam thanh niên tên R (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 03 viên ma túy hồng phiến với giá 150.000 đồng. Sau khi có ma túy, L cất giấu tại tay phải của mình rồi quay ra gặp H đang ngồi đợi trên xe taxi trước trường THCS Nguyễn Trãi (thuộc khu phố 2, Phường 1, thành phố Đông Hà). Cả hai cùng đi xe taxi đến thuê phòng số 10 nhà trọ số 26 đường Hải Triều (thuộc khu phố 9, Phường 1, thành phố Đông Hà). Tại đây, L làm dụng cụ và cùng H sử dụng hết 01 viên, còn 02 viên L để trên bàn trong phòng trọ số 10, đến 09 giờ 15 phút ngày 11/12/2020 thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy nói trên.

Kết luận giám định số 01/KLGĐ ngày 15/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 02 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY được niêm phong trong phong bì ký hiệu M có khối lượng 0,2058 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, điều luật có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của mỗi bị cáo trong vụ án:

Hành vi tàng trữ ma túy loại Methamphetamine của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các loại chất ma tuý. Ma túy là nguồn gốc của các loại tội phạm; không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, kinh tế của bản thân người sử dụng ma túy, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến gia đình và xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục, đồng thời góp phần vào công tác phòng, chống và đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma túy.

Hành vi phạm tội của các bị cáo có yếu tố đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Trong đó, bị cáo Lê Quang Thanh L là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử hình phạt tù nhưng đã khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn Vũ H góp tiền để mua ma túy sử dụng và cũng là người trực tiếp đi mua ma túy, làm dụng cụ để sử dụng ma túy. Đối với bị cáo Nguyễn Vũ H, sau khi nghe bị cáo L rủ góp tiền mua ma túy để sử dụng thì đã đồng ý ngay và đưa cho L số tiền 200.000 đồng để L đi mua ma túy và cùng với L sử dụng hết 01 viên ma túy. Sau đó, cả hai bị cáo cùng cất giữ 02 viên ma túy còn lại. Vì vậy, khi lượng hình cần xem xét đến mức hình phạt đối với vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

- Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần phải ban hành quyết định tạm giam mới.

[5] Về vật chứng thu giữ:

- Số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 05xxxx có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 chai nhựa trong, cao khoảng 22cm là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng, được các bị cáo làm công cụ sử dụng ma túy nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

[6] Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của nam thanh niên tên R là người đã bán ma túy cho các bị cáo nên không có cơ sở xử lý.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Quang Thanh L Nguyễn Vũ H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Lê Quang Thanh L: 14 (mười bốn) tháng tù.

- Bị cáo Nguyễn Vũ H: 12 (mười hai) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của hai bị cáo tính từ ngày bị bắt tạm giữ 11/12/2020.

3. Về vật chứng thu giữ: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bao niêm phong đựng toàn bộ mẫu vật là số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký hiệu PS3A 05xxxx có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và 01 chai nhựa trong, cao khoảng 22cm.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng.

Các vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/4/2021, giữa cơ quan Điều tra Công an thành phố Đông Hà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc các bị cáo Lê Quang Thanh L và Nguyễn Vũ H mỗi người phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sở thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2021/HS-ST

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;